Kinh Nghiệm Về Phát Triển Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa


Thái Lan, những năm 1960 đã thực thi chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu; tới năm 1970, thực thi chiến lược công nghiệp hoá định hướng xuất khẩu. Thái Lan đã lựa chọn 03 lĩnh vực ưu tiên là công nghiệp kỹ thuật, công nghiệp chế biến và DNNVV nông thôn. Khuyến khích phát triển gia công kim loại, chế tạo linh kiện, phụ tùng hỗ trợ cho sản phẩm viễn thông và điện tử xuất khẩu. Thái Lan thành lập nhiều cơ quan hỗ trợ CNHT phát triển như: Viện Nghiên cứu Ô tô - Xe máy; Văn phòng Phát triển CNHT; Uỷ ban Xúc tiến CNHT... [105] Thậm chí khối doanh nghiệp của Thái Lan được tham gia vào việc dự thảo, điều chỉnh và kiểm tra các chính sách phát triển. Chính sách của Thái Lan rõ ràng, ổn định; áp dụng những biện pháp vừa khuyến khích vừa bắt buộc các nhà lắp ráp nội địa hoá sản phẩm bằng việc sử dụng linh phụ kiện sản xuất trong nước. Phát triển CNHT dựa vào FDI theo hướng tiếp cận mở, hoạch định chính sách CNHT linh hoạt, không nặng về hành chính, nên dù bất ổn chính trị, khủng hoảng kinh tế diễn ra thường xuyên, song Thái Lan vẫn duy trì được tăng trưởng dài hạn. [148]

Malaysia, từ năm 1958 đã vận dụng chính sách ưu đãi công nghiệp tiên phong cho những nhóm ngành sản xuất hàng tiêu dùng thay thế nhập khẩu. Vào những năm 1970, chính sách công nghiệp đã định hướng xuất khẩu dựa vào các nhà sản xuất hàng lắp ráp và chế biến. Năm 1980, Nhà nước can thiệp sâu vào phát triển công nghiệp nặng, liên doanh, thành lập DNNN, hình thành nền móng công nghiệp rộng lớn. Malaysia cũng đưa ra một loạt chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài, hỗ trợ về thuế cho sản xuất máy móc và linh kiện, các thiết bị giao thông, linh kiện điện tử, các sản phẩm nhựa [111]... Quy hoạch công nghiệp giai đoạn 2006 - 2020, Malaysia bổ sung danh mục CNHT, tập trung tạo ra giá trị, tri thức, nguồn nhân lực và mở rộng các biện pháp nhằm tăng cường năng lực cho các nhà cung cấp, đặc biệt trong ngành công nghiệp ô tô. Nỗ lực phát triển các nhà cung cấp linh phụ kiện, tăng cường liên kết công nghiệp giữa doanh nghiệp lớn với nhà cung cấp trong nước. Malaysia không có luật đầu tư nước ngoài riêng, đây được coi là điểm có lợi, giúp Chính phủ có những khoảng trống trong việc đưa ra những chính sách điều tiết linh hoạt và thích hợp.


2.3.1.2. Kinh nghiệm về phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa

Trong quá trình phát triển ngành CNHT, các nước ở khu vực Đông Á khuyến khích mạnh mẽ sự gia nhập của các DNNVV trong nước, còn sự thu hút đầu tư nước ngoài chủ yếu là bước dẫn đường cho doanh nghiệp trong nước.

Nhật Bản, năm 1963 ban hành Luật các Công ty Xúc tiến đầu tư phục vụ DNNVV. Năm 1996, thành lập Quỹ Đầu tư mạo hiểm để hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp kinh doanh mạo hiểm phát hành trái phiếu; thành lập sàn giao dịch thứ cấp độc lập với sàn giao dịch sơ cấp... Để giúp các DNNVV nhu cầu về vốn, Nhật Bản đã cải thiện các chính sách trợ cấp tài chính và chính sách cho vay ưu đãi. Chính phủ tài trợ trực tiếp cho đầu tư đổi mới công nghệ để khuyến khích các DNNVV áp dụng những công nghệ mới, cấp những khoản vay với lãi suất thấp thông qua các ngân hàng phục vụ chính sách [140]. Trường hợp các DNNVV bị yếu thế trong cạnh tranh, Chính phủ bảo hộ bằng cách cho vay trực tiếp với lãi suất thấp và dài hạn. Về hỗ trợ tài chính cho các DNNVV, Nhật Bản xây dựng đa dạng các loại hình tổ chức tài chính quốc doanh phục vụ, cung cấp vốn cho sự phát triển của các DNNVV, đáp ứng nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp trong đầu tư đổi mới công nghệ. Ngoài ra, Nhật Bản xây dựng tiêu chuẩn 5S (sàng lọc, sắp xếp, sạch sẽ, săn sóc, sẵn sàng) đối với các doanh nghiệp sản xuất ngành CNHT, chủ yếu là các DNNVV, mục đích định hướng và quy định tạo khuôn khổ hoạt động của họ từ Chính phủ.

Trung Quốc, chú trọng xúc tiến, đặt nền tảng cho việc hỗ trợ và bảo vệ hợp pháp các khoản đầu tư của DNNVV cũng như vốn chủ sở hữu của các nhà đầu tư. Có các quy định bảo vệ quyền lợi hợp pháp, quyền cạnh tranh, quyền thương mại công bằng cho các DNNVV. Nới lỏng các điều kiện để DNNVV dễ dàng tiếp cận với thị trường thế giới. Chính phủ cung cấp vốn từ ngân sách hỗ trợ cho DNNVV, thông qua việc thành lập quỹ khuyến khích các DNNVV tăng cường mở rộng quy mô. Chính phủ còn ưu đãi giảm và miễn thuế thu nhập đối với các DNNVV đáp ứng được các quy định của Nhà nước về sử dụng lao động,


cung ứng nguyên vật liệu [24]… hoặc các DNNVV nằm trong khu vực kinh tế kém phát triển, khu vực nghèo. Hỗ trợ các DNNVV tiếp cận thị trường, bằng cách giúp nâng cao, đổi mới công nghệ, thúc đẩy chuyên môn hóa, mở rộng mạng lưới cung ứng nguyên vật liệu, bán và xuất khẩu ra nước ngoài bằng các chính sách tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm tín dụng... Trao giải thưởng cho những DNNVV có những giải pháp "thoát hiểm", cải cách quản trị, quản lý... Đặc biệt, đối với DNNVV có kết quả sản xuất - kinh doanh tốt, Chính phủ có thể giảm hoặc miễn chi phí bảo lãnh về vốn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

Thái Lan, các DNNVV (SMEs) đang giữ vai trò là động lực phục hồi và tăng trưởng kinh tế, SMEs đóng góp 38% vào GDP. Hiện tại, Thái Lan có gần ba triệu SMEs đăng ký và đang hoạt động trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, thu hút số lao động khoảng chín triệu người. Cuộc khủng hoảng kinh tế tại Thái Lan 1997, SMEs gặp nhiều khó khăn nhất, Chính phủ đã cung cấp tiền, thành lập Cơ quan Hỗ trợ SMEs Thái Lan (Osmep) có trách nhiệm chính đẩy mạnh sự phát triển SMEs của nước này. Osmep tích cực hỗ trợ, thúc đẩy SMEs đi đầu trong CNHT về sản xuất các mặt hàng mới, áp dụng công nghệ mới, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Ngân hàng SMEs Thái Lan là nơi cung cấp vốn chủ yếu với nhiều ưu đãi cho SMEs nước này hoạt động. [148]

Malaysia, từ năm 1980 đến nay, nỗ lực lớn trong việc phát triển DNNVV. Đáng chú ý là Chương trình phát triển các doanh nghiệp cung ứng (VDP), tạo ra một thị trường sản phẩm công nghiệp, trong đó các DNNVV có thể trở thành nhà chế tạo, cung ứng đáng tin cậy; tiếp là Chương trình phát triển các nhà cung ứng linh kiện ô tô, Công ty Perusahaan Otomobil Nasional Bhd được coi là Công ty mỏ neo giúp các DNNVV phát triển và mở rộng kĩnh vực sản xuất ô tô; rồi đến Kế hoạch phát triển linh kiện điện và điện tử, do hai công ty nội địa lớn đứng làm “công ty mỏ neo” có trách nhiệm trợ giúp phát triển, dẫn dắt, tạo thị trường, hỗ trợ công nghệ, kỹ năng quản lý cho những nhà cung cấp hay các DNNVV [111]... Malaysia phân chia các đối tượng thành các nhóm nhỏ, xây dựng những chương

Công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam - Hà Thị Hương Lan - 10


trình hỗ trợ cho từng nhóm và có chính sách ưu tiên thuế đối với các doanh nghiệp theo quy mô khác nhau. Các doanh nghiệp được miễn thuế nhập khẩu và thuế bán hàng đối với các nguyên liệu thô, linh phụ kiện và máy móc thiết bị nhập khẩu để phục vụ mục đích sản xuất. Ban hành chính sách tín dụng hỗ trợ các DNNVV trong nước, nhất là các DNNVV lĩnh vực CNHT.

2.3.1.3. Kinh nghiệm về phát triển cụm liên kết ngành

Cụm kiên kết ngành là mô hình đã thành công ở nhiều quốc gia khi phát triển CNHT. Mô hình các CLKN nhằm góp phần gia tăng năng lực cung ứng nội địa. Thực tế kiểm chứng, sự lớn mạnh của một CLKN kéo theo sự gia tăng, phát triển của các doanh nghiệp trong ngành CNHT và sẽ có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn đầu tư, thị trường đầu tư và dây chuyền công nghệ hiện đại.

Nhật Bản, trong một thời gian dài Chính phủ Nhật Bản đã xây dựng và triển khai kế hoạch chính sách CLKN một cách công phu. Ðể hình thành một CLKN, METI đã tiến hành bốn bước chính: (i) phân tích đặc điểm của địa phương; (ii) xác định mạng lưới có thể có; (iii) mở rộng phạm vi mạng lưới; và

(iv) thúc đẩy tập trung công nghiệp và đổi mới. Ba nhóm chính sách mà METI thực hiện là: (i) xây dựng mạng lưới; (ii) hỗ trợ doanh nghiệp (R&D), phát triển thị trường, quản lý, đào tạo); và (iii) thúc đẩy liên kết (giữa tổ chức tài chính - công nghiệp - cơ sở đào tạo) [7].

Trung Quốc, để phát triển CLKN đã và đang tập trung phát triển 03 loại hình CLKN là: CLKN cho các ngành có hàm lượng kỹ thuật và công nghệ cao (công nghệ điện tử viễn thông và công nghệ thông tin (IT); CLKN cho các ngành thông thường, những ngành thâm dụng vốn kết hợp với thâm dụng kỹ thuật (chế tạo xe hơi); và CLKN cho các ngành truyền thống (da giày, dệt, may,…).

Thái Lan, hiện nay đang phát triển CLKN đi theo loại mô hình sản xuất tích hợp. Mô hình này thường gắn kết với CLKN để sử dụng lợi thế khoảng cách địa lý và sự gắn kết chặt chẽ với các doanh nghiệp FDI. Theo đó, các linh kiện, phụ kiện, chi tiết của mỗi máy móc, thiết bị hay sản phẩm có tiêu chuẩn kích cỡ riêng. Việc sản xuất, chế tạo chúng thường theo một công nghệ khép kín.


Malaysia, phát triển CLKN được gọi là Iskandar Malaysia. Mục đích của Iskandar là nhằm để phát triển một vùng lãnh thổ trở nên có sức cạnh tranh mạnh, năng động và có tính toàn cầu. Hiện tại, ở Malaysia có 09 CLKN bao gồm 06 lĩnh vực dịch vụ: tư vấn tài chính; sáng chế, sáng tạo; logistics; du lịch; giáo dục; y tế; và 03 lĩnh vực công nghiệp chế tác: điện và điện tử; hóa chất và hóa dầu; chế biến lương thực và thực phẩm. Nâng cấp và phát triển CLKN được Malaysia chú trọng và xem là khâu đột phá trong chiến lược và chính sách phát triển kinh tế đất nước. Phần cấu thành có tính chiến lược của khâu đột phá này là nâng cao tính gắn kết của mạng lưới trong mỗi CLKN để tất cả các DN, các tổ chức trong CLKN có thể gắn kết, phối hợp với nhau một cách trôi chảy và thuận lợi nhất [10].

2.3.1.4. Kinh nghiệm về xây dựng mối liên kết giữa các doanh nghiệp

Tại các nước phát triển CNHT mạnh trong khu vực cho thấy, khi có mối liên kết chặt chẽ và thông suốt giữa các doanh nghiệp tham gia vào CNHT và công nghiệp lắp ráp, chế tạo thì CNHT mới có thể phát triển mạnh được.

Nhật Bản, là quốc gia có nền công nghiệp phát triển nhất Châu Á và đứng đầu trên thế giới. Tại Nhật Bản, để phục vụ nhà lắp ráp, có hàng nghìn các doanh nghiệp vệ tinh khác sản xuất các loại linh phụ kiện hỗ trợ cho doanh nghiệp. Các công ty của Nhật Bản có tầm cỡ trên thế giới, nhưng các công ty này chỉ chiếm 1% số lượng doanh nghiệp, còn trên 95% là doanh nghiệp cấp thấp (SMEs) hơn sản xuất các kinh kiện cho công ty này. Mối liên kết mạnh giữa các doanh nghiệp Nhật Bản, được phân chia thành các Tier, trong đó Tier 1 sẽ là các tập đoàn lớn đảm trách nhiệm vai trò tổng thầu; một dự án lớn sẽ thường được chia nhỏ thành rất nhiều phần để chia tiếp cho các công ty nhỏ hơn (Tier 2, Tier 3), thậm chí là Outsource (hợp đồng thuê ngoài hay dịch vụ gia công) ra nước ngoài để tiết giảm chi phí. Nhật Bản đã thành công trong việc liên kết các doanh nghiệp, điều này nhận thấy khi tất cả các doanh nghiệp cùng hướng đến những phương thức quản lý như 5S hay Kaizen (cải tiến, cải thiện). Chính sự liên kết này đã góp phần làm nên sự phát triển CNHT ở Nhật Bản [25].


Trung Quốc, sự phát triển vượt bậc của ngành CNHT ở một đất nước đông dân nhất thế giới, chính là nhờ mối liên kết hợp tác chặt chẽ giữa các doanh nghiệp nội địa. Các doanh nghiệp lắp ráp trong nước có được nguồn cung các linh kiện, phụ tùng tại chỗ trong nước với chất lượng đảm bảo, giá thành rẻ từ phía các nhà cung ứng nội địa, nhất là các DNNVV. Hiện tại Trung Quốc có tới

4.172 hãng cung cấp đồ linh kiện ô tô (các DNNVV chiếm tỷ lệ 70%). Ngoài sự liên kết các nhà cung cấp nội địa, Trung Quốc còn tăng cường liên kết hợp tác với các công ty lắp ráp nước ngoài, các tập đoàn TNCs, MNCs… đưa tổng giá trị xuất khẩu nhiều năm đạt kỷ lục cao, như: năm 2007 Trung Quốc xuất khẩu 11,5 tỷ USD các đồ linh kiện ô tô tăng 35% so với cùng kỳ năm trước; năm 2008, đạt tổng giá trị xuất khẩu xe hơi và phụ tùng ô tô là 120 tỷ USD [24].

Thái Lan, sự liên kết chặt chẽ giữa các nhà cung cấp linh kiện với các nhà lắp ráp đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển CNHT. Trong ngành ôtô - xe máy, các nhà sản xuất linh phụ kiện của Thái Lan đã thành công lớn trong việc giảm chi phí sản xuất nhờ có sự hợp tác chặt chẽ với các nhà lắp ráp để giảm giá thành ngay từ khâu thiết kế; việc liên kết hợp tác trong CNHT còn được thực hiện trên nhiều lĩnh vực khác như đầu tư thiết bị, phụ tùng mới, nghiên cứu và phát triển. Chính phủ Thái Lan quan tâm thúc đẩy các liên kết công nghiệp giữa các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước; tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp, thành lập các tổ chức chuyên về phát triển CNHT làm cầu nối giữa Chính phủ với doanh nghiệp; giữa các doanh nghiệp với nhau. Từng ngành cụ thể thành lập các vụ, viện góp phần là cầu nối giữa khu vực nhà nước với tư nhân, giữa các nhà lắp ráp với các nhà cung ứng nội địa [24].

Ở Malaysia, tăng cường mối liên hệ giữa các nhà cung cấp và các nhà lắp ráp thông qua Chương trình phát triển các doanh nghiệp cung ứng (VDP). Mục tiêu chính của chương trình là tạo ra thị trường công nghiệp mà các DNNVV của Malaysia có thể trở thành những nhà sản xuất và cung cấp đáng tin cậy các sản phẩm đầu vào công nghiệp, máy móc thiết bị cho ngành công nghiệp lớn hơn,


thông qua đó tạo điều kiện hội nhập và các liên kết mạnh mẽ giữa các công ty

vừa và nhỏ với các công ty lớn, công ty tài chính.

2.3.1.5. Kinh nghiệm về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao được coi là nhân tố quan trong nhất cho sự phát triển lâu dài của các ngành CNHT. Phát triển nguồn nhân lực, cần sự phối hợp của doanh nghiệp trong, ngoài nước và các cơ sở đào tạo.

Nhật Bản, năm 1985 có Luật khuyến khích phát triển nguồn nhân lực. Nhà nước có vai trò cung cấp cơ sở hạ tầng và thông tin thông qua các hạt nhân sáng tạo. Các cơ sở đào tạo có mối liên hệ thường xuyên với cộng đồng doanh nghiệp, nắm rõ thực tiễn để cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với các công ty mẹ. Nhật Bản đưa ra chương trình liên kết học đường - doanh nghiệp, tạo ra những lao động kỹ năng cao. Hiện tại, Nhật Bản có 05 hạt nhân sáng tạo quốc gia và 41 hạt nhân sáng tạo cấp tỉnh. Đây là cầu nối giữa các cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV nhằm cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội. Nhật Bản đưa ra cơ chế đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chỗ làm việc, theo quy mô của doanh nghiệp, công ty lớn đào tạo càng nhiều. Trong đó chú trọng đào tạo: phong cách và kỷ luật lao động; kiến thức thực tế; tinh thần tập thể trong công ty [24].

Trung Quốc, có các chính sách thúc đẩy nhân lực cho DNNVV gắn với cấp địa phương, như giải pháp tự do hoá thị trường lao động, tự do hoá việc di cư lao động. Thực hiện tìm kiếm nguồn nhân lực chất lượng cao trên thế giới hay từ nguồn lực Hoa Kiều. Trung Quốc đã ban hành Cương yếu quy hoạch nhân tài, với chủ trương phát triển nhân tài tầm trung và dài hạn. Hiện nay, Chính phủ Trung Quốc đang triển khai thực hiện 16 dự án khoa học kỹ thuật quan trọng, phấn đấu đến năm 2020 đưa tổng số cán bộ khoa học kỹ thuật loại hình sáng tạo cấp cao lên tới 40 nghìn người [24]. Đồng thời, tăng cường đào tạo nhân tài nghiên cứu phát triển, kỹ thuật khan hiếm và nhân tài quản lý; xây dựng cơ sở tập huấn sáng tạo đổi mới công trình; ấn định chính sách ưu đãi, nhất là nhân tài hạt nhân dẫn đầu ngành sản xuất, nhân tài kỹ thuật công trình, v.v...


Thái Lan, cũng được coi là một trong những nước tích cực trong việc phát triển kỹ năng. Chính phủ đã đưa ra các gói hỗ trợ đổi mới công nghệ, khuyến khích phát triển kỹ năng bằng cách giảm thuế thu nhập dài nhất là 8 năm và miễn giảm thuế nhập khẩu máy móc. Theo đó, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực điện tử, y tế, thiết kế và đào tạo nguồn nhân lực, tuyển dụng nhân lực khoa học được hưởng ưu đãi. Thái Lan triển khai tốt hoạt động này, nhưng họ vẫn đang rất thiếu cán bộ kỹ thuật có chất lượng. Trong quá khứ họ chỉ có hơn 20% cán bộ tốt nghiệp về khoa học kỹ thuật, hiện đã có kế hoạch tăng tỉ số này lên 40% [105].

Malaysia, là một trong những nước đi đầu trong việc tăng cường phát triển kỹ năng. Chính phủ Malaysia đã thành lập quỹ phát triển nhân lực, hỗ trợ chi phí đào tạo cho công ty thực hiện đào tạo nhân viên trước khi vào làm và hỗ trợ gấp đôi chi phí cho những công ty có sắp xếp lao động đi đào tạo tại một cơ sở đào tạo được Nhà nước công nhận. Đồng thời, Malaysia cũng đặc biệt khuyến khích sự phát triển trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển lĩnh vực có đóng góp đáng kể đối với quá trình phát triển nguồn nhân lực trong dài hạn của đất nước. Theo đó, Malaysia thực hiện miễn thuế thu nhập 05 năm đầu hoặc giảm 100% thuế đầu tư trong 10 năm đầu cho những hoạt động trên [111].

2.3.1.6. Kinh nghiệm về xây dựng cơ sở dữ liệu và trao đổi thông tin

Phát triển CNHT cần có các CSDL chất lượng cao cung cấp thông tin kịp thời, đầy đủ và hiệu quả cho các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp hạ nguồn đến các doanh nghiệp hỗ trợ. Việc thiết lập CSDL hoàn chỉnh là một trong những điều kiện tối quan trọng trong việc kết nối, trao đổi, tìm hiểu nhu cầu của các doanh nghiệp mua sản phẩm với các doanh nghiệp cung ứng.

Nhật Bản, thành lập khoảng 110 trung tâm hỗ trợ máy móc thiết bị đã giúp đỡ các công ty nhỏ với khả năng tài chính hạn chế có thể tiếp cận với máy móc thiết bị công nghệ mới; xây dựng 47 trung tâm hỗ trợ công nghệ, xúc tiến liên kết giữa các nhà cung cấp linh kiện, thường là các DNNVV với các công ty lớn thông qua thiết lập cơ sở dự liệu về CNHT. Các địa phương ở Nhật Bản đều có CSDL riêng với sự tham gia của các quan chức chính quyền, các doanh

Xem tất cả 201 trang.

Ngày đăng: 25/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí