Công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam - Hà Thị Hương Lan - 2


mã, dây chuyền, công nghệ của nhà sản xuất công nghiệp do thị hiếu tiêu dùng ngày càng cao và cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Ngoài ra, phát triển công nghiệp hỗ trợ sẽ góp phần cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao sức hút đầu tư vào những lĩnh vực công nghiệp mà công nghiệp hỗ trợ đó đi trước một bước để “mở đường”. Chính vì vậy, công nghiệp hỗ trợ phát triển sẽ nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp, ngành công nghiệp nói riêng cũng như của cả nền kinh tế quốc dân nói chung đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển bền vững.

Tuy nhiên, Việt Nam hiện nay, hệ thống Luật pháp và chính sách chưa đủ mạnh để tạo điều kiện về môi trường pháp lý, định hướng và khuyến khích đầu tư, phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ. Hiện ngành công nghiệp hỗ trợ còn khá non trẻ, quy mô nhỏ, tính cạnh tranh thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của các ngành công nghiệp chế tạo và lắp ráp. Phát triển công nghiệp hỗ trợ là vấn đề mới, phạm vi rộng và nội dung phức tạp liên quan đến các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ công nghiệp. Việt Nam, với nguồn lực hạn hẹp, quy mô các ngành kinh tế hạn chế, phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ đòi hỏi nguồn vốn lớn, công nghệ cao, lao động chất lượng, đây là khó khăn lớn. Để phát huy lợi thế so sánh, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nói riêng, quá trình hội nhập quốc tế nói chung, phù hợp với thực trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay thì lựa chọn phát triển công nghiệp hỗ trợ trở thành một vấn đề mang tính khách quan và thiết thực. Đây là một vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, với ý nghĩa đó tác giả chọn đề tài: “Công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam” làm luận án tiến sỹ, chuyên ngành kinh tế chính trị.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1.Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về CNHT, đặc biệt làm rõ vai trò và những tiêu chí đánh giá mức độ phát triển CNHT; Luận án phân tích, đánh giá thực trạng CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam, chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra trong phát triển CNHT. Từ đó đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển CNHT trong một số ngành công nghiệp Việt Nam trong hội nhập quốc tế.


2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận án chủ yếu tập trung vào những nhiệm vụ cơ bản sau:

- Luận giải những vấn đề lý luận chung về CNHT. Đặc biệt làm rõ vai trò của CNHT.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

- Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển CNHT của một số quốc gia. Từ đó

rút ra một số bài học có giá trị tham khảo đối với Việt Nam.

Công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam - Hà Thị Hương Lan - 2

- Phân tích, đánh giá thực trạng CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2013. Từ đó chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với phát triển CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển CNHT

trong một số ngành công nghiệp Việt Nam trong hội nhập quốc tế.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án

Đối tượng nghiên cứu của Luận án là CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam, cụ thể là tập trung nghiên cứu CNHT ở 03 ngành chủ yếu là xe máy, dệt may và điện tử dưới góc độ kinh tế chính trị.

3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài luận án

- Về không gian: Luận án nghiên cứu CNHT trong một số ngành công nghiệp Việt Nam, trong đó tập trung nghiên cứu CNHT của 03 ngành xe máy, dệt may, điện tử trên phạm vi cả nước.

- Về thời gian: Luận án nghiên cứu CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2013.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc

biệt là lý luận về phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất.

Luận án sử dụng một số lý thuyết và mô hình kinh tế học như liên kết kinh doanh (business linkages), chuỗi giá trị (value chain), cụm liên kết doanh nghiệp công nghiệp (industrial cluster) để phân tích và làm rõ vấn đề nghiên cứu.


4.2. Phương pháp nghiên cứu

- Tác giả sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm nền tảng cơ sở phương pháp luận.

- Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp lôgic - lịch sử, kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê...

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

- Làm rõ nội hàm và các nhân tố ảnh hưởng tới CNHT.

- Những tiêu chí đánh giá mức độ phát triển của CNHT.

- Luận giải rõ vai trò mang tính hai mặt của phát triển CNHT đối với nền

kinh tế quốc dân nói chung và ngành công nghiệp nói riêng.

- Phân tích, đánh giá thực trạng CNHT ngành xe máy, dệt may và điện tử giai đoạn 2006 - 2013.

- Trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển CNHT trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam đến năm 2020.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội

dung luận án bao gồm 4 chương, 10 tiết.


Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI


1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ ĐƯỢC NGHIÊN CỨU LIÊN

QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

CNHT không phải là một vấn đề mới trên thế giới, rất nhiều nước nhận thức rõ vai trò của nó trong phát triển kinh tế - xã hội và sớm quan tâm, xây dựng hệ thống lý thuyết, chính sách phát triển cho ngành CNHT như: Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia... Hiện nay, có một số công trình khoa học của các nước nghiên cứu về CNHT dưới các khía cạnh khác nhau mà tác giả được biết, cụ thể như sau:

1.1.1. Một số công trình khoa học của nước ngoài

1.1.1.1. Nhóm công trình khoa học lý luận chung về công nghiệp hỗ trợ

và vai trò của công nghiệp hỗ trợ

- Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), (1995), “ Investigation report for industrial development: Supporting industry sector”, Tokyo. Tài liệu đã đưa ra báo cáo điều tra phát triển công nghiệp về: “ngành Công nghiệp hỗ trợ”, báo cáo đã đánh giá vai trò quan trọng và thực trạng CNHT trong các ngành công nghiệp Nhật Bản; và kết luận về mối liên hệ, tính liên kết trong sản xuất sản phẩm cũng như những yêu cầu và điều kiện thúc đẩy CNHT Nhật Bản phát triển phục vụ cho ngành công nghiệp nói riêng, nền kinh tế Nhật Bản nói chung.[26]

- Prema-Chandra Athukorala, (2002), “Đầu tư nước ngoài trực tiếp và xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo: cơ hội và chiến lược”, Đề án Khoa kinh tế Trường Nghiên cứu Châu Á Thái Bình Dương, Đại học Quốc gia Australia. Đề án phân tích về vai trò và mối quan hệ của sản phẩm chi tiết, công nghiệp chế tạo hỗ trợ cho quá trình sản xuất sản phẩm chính đối với việc thu hút FDI. Từ đó, tác giả chỉ ra những cơ hội, thách thức trong thu hút FDI và để thu hút FDI hiệu quả, cần quan tâm phát triển công nghiệp chế tạo, đó là chìa khóa cho việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI.[58]


- Do Manh Hong, (2008), “Promotion of Supporting Industries - The key for attracting FDI in developing countries” (Xúc tiến CNHT - chìa khóa cho thu hút FDI ở các nước đang phát triển). Tác giả đã chỉ ra vai trò ngày càng quan trọng của CNHT trong quá trình phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển. Để thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững, các nước đang phát triển cần tạo mọi điều kiện để thu hút FDI, song để thu hút được nhiều vốn FDI và sử dụng có hiệu quả nguồn FDI, các nước đang phát triển chỉ có một con đường duy nhất là thúc đẩy và xây dựng một nền CNHT đủ mạnh để thu hút và thẩm thấu được nguồn vốn FDI đem lại hiệu quả và sự phát triển bền vững cho nền kinh tế của các nước đang phát triển.[129]

1.1.1.2. Nhóm công trình khoa học nghiên cứu về phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ

- Bộ Công thương Nhật Bản (MITI, nay là Bộ Kinh tế, Công nghiệp và Thương mại, METI), (1985), “White paper on Industry and Trade” (Sách trắng về hợp tác kinh tế), Tokyo. Trong cuốn sách này, thuật ngữ CNHT lần đầu tiên được nhắc đến để chỉ các DNNVV có đóng góp cho việc phát triển cơ sở hạ tầng công nghiệp ở các nước Châu Á trong trung và dài hạn hay đó chính là các công ty sản xuất linh phụ kiện. Trong tài liệu, các tác giả đã đánh giá vai trò của các công ty sản xuất linh phụ kiện trong quá trình CNH, HĐH và phát triển các DNNVV ở các nước ASEAN, đặc biệt là ASEAN 4 (gồm bốn nước: Indonesia, Malaysia, Philipines và Thái Lan). Việc thúc đẩy phát triển hệ thống các DNNVV chính là việc thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp hỗ trợ trong quá trình CNH, HĐH.[141]

- Goh Ban Lee, (1998), “Linkage between the Multinational Corporations and Local Supporting Industries” (Liên kết giữa các tập đoàn đa quốc gia và các ngành CNHT nội địa), Đại học Sains, Malaysia. Tác giả phân tích mối quan hệ chặt chẽ trong hợp tác, phân công lao động với các tập đoàn đa quốc gia trong việc thúc đẩy nền kinh tế Malaysia phát triển. Đó chính là việc liên kết, hợp tác trong quá


trình sản xuất sản phẩm công nghiệp. Tác giả chỉ rõ tầm quan trọng của chính sách phát triển nguồn nhân lực và các chính sách hỗ trợ liên kết của Chính phủ Malaysia đối với các tập đoàn điện tử gia dụng của Nhật Bản với các doanh nghiệp nội địa trong sản xuất linh kiện cho ngành điện tử tại Malaysia.[136]

- Cục xúc tiến Ngoại thương Nhật Bản (JETRO), (2003), “Japanese - Affiliated Manufactures in Asia” (Các nhà sản xuất Nhật Bản tại Châu Á) báo cáo phân tích tình hình thuê ngoài và các nhà cung ứng sản phẩm hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất của Nhật Bản ở Châu Á (ASEAN và Ấn Độ). Từ đó, chỉ ra những cơ hội thách thức, những thuận lợi khó khăn của các nhà sản xuất Nhật Bản tại Châu Á.[133]

- Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC), (2004), Tổng hợp, xây dựng báo cáo điều tra, khảo sát: “Survey report on overseas business operations by Japanese manufacturing companies” (Báo cáo khảo sát các bộ phận ở nước ngoài của các công ty lắp ráp Nhật Bản). Báo cáo phân tích thực tế quá trình sản xuất của chi nhánh thuộc các tập đoàn Nhật Bản ở Châu Á, đặc biệt là Thái Lan, Malaysia, Indonesia đã sử dụng hệ thống thầu phụ được hình thành với vai trò mạnh mẽ của các doanh nghiệp sản xuất linh kiện có vốn đầu tư từ Nhật Bản. Đó chính là các doanh nghiệp CNHT. Hệ thống thầu phụ này cung cấp các nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng cho các nhà sản xuất, lắp ráp tại các nước Châu Á như: Thái Lan, Malaysia, Indonesia, giúp cho các nước này hoàn chỉnh quá trình sản xuất sản phẩm.[132]

- D. McNamara, (2004), “ Integrayting Supporting Industries - APEC next Challege”, Trung tâm nghiên cứu Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Tác giả đã luận giải những vấn đề: làm thế nào để các thành viên APEC cùng nhau thúc đẩy mạng lưới SMEs hiệu quả hơn nhằm hỗ trợ của các công ty sản xuất có vốn đầu tư nước ngoài. Dù đã có nhiều chính sách được đưa ra nhưng vấn đề cung cấp sản phẩm CNHT được đề cập đến như là mô hình kịp thời để giải quyết mối quan hệ lợi ích và khắc


phục những hạn chế của APEC trong quá trình chuyển đổi sang suy giảm hoặc tăng trưởng nhanh chóng. Bởi các nhà sản xuất thành phần chính sẽ tham gia vào đối thoại và đại diện phần nào cho mạng lưới nhà cung cấp vừa và nhỏ mà họ phối hợp và do đó cần xây dựng mạng lưới được phân biệt rõ giữa nhà cung cấp lớn hơn và nhỏ hơn, sau đó tìm cách để kết hợp lại các ý kiến về các vấn đề liên quan đến lĩnh vực chính.[127]

1.1.1.3. Nhóm công trình khoa học nghiên cứu về giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ

- GS. Porter E. Michael (1990), “The competitive advantage of nations, Harvard business review” (Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia), Trường Đại học Havard - New York Mỹ. Tác giả là nhà quản trị chiến lược nổi tiếng của Mỹ, trong bài viết tác giả đã phân tích, giải thích thuật ngữ “Công nghiệp liên quan và hỗ trợ”. Tác giả phân tích khá sâu sắc thuật ngữ này thông qua việc đưa ra lý thuyết về khả năng cạnh tranh quốc gia qua mô hình “viên kim cương”. Trong đó, công nghiệp liên quan và hỗ trợ được coi là một trong bốn yếu tố quyết định đến lợi thế cạnh tranh của một quốc gia. “Công nghiệp liên quan và hỗ trợ” được coi là sự tồn tại của ngành cung cấp và ngành công nghiệp liên quan có năng lực cạnh tranh quốc tế. Tác giả đã chia yếu tố này thành hai phần là CNHT và công nghiệp liên quan. Theo đó, sự phát triển của một ngành công nghiệp đạt được phải dựa trên khả năng sáng tạo, đổi mới và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư thông qua mối quan hệ tác động qua lại và sự liên kết bền vững như cấu trúc tinh thể của kim cương giữa bốn nhóm yếu tố, trong đó có nhấn mạnh vai trò của CNHT.[146]

- Ryuichiro, Inoue, (1999) “Future prospects of Supporting Industries in ThaiLand and Malaysia” (Tương lai của ngành CNHT Thái Lan và Malaysia). Các tác giả đã khảo sát tình hình phát triển CNHT ở Thái Lan và Malaysia sau cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á 1997. Từ đó, chỉ ra sự cần thiết phải điều chỉnh chiến lược phát triển các ngành công nghiệp cho phù hợp sau khủng hoảng. Các tác giả đã đưa ra một loạt giải pháp nhằm điều chỉnh chính sách công nghiệp sau


khủng hoảng như: tăng cường phát triển các ngành CNHT ô tô, điện tử... đẩy mạnh mô hình liên kết công nghiệp, xây dựng các khu, cụm công nghiệp..., trong đó nhấn mạnh sự cần thiết xây dựng một hệ thống CNHT hoàn chỉnh.[148]

- Ratana. E, (1999), “The role of small and medium supporting industries in Japan and Thailand” (Vai trò của CNHT vừa và nhỏ ở Nhật Bản và Thái Lan), Trung tâm nghiên cứu IDE APEC, Working Paper Series 98/99 Tokyo. Tác giả đã đi sâu phân tích mối quan hệ giữa DNNVV với CNHT tại hai quốc gia là Nhật Bản và Thái Lan, từ đó chỉ ra mối liên hệ mật thiết giữa DNNVV với CNHT. Nghiên cứu chỉ rõ, CNHT chủ yếu do DNNVV thực hiện, do đó muốn CNHT phát triển, phải tạo điều kiện thúc đẩy DNNVV phát triển. Nghiên cứu khẳng định vai trò quan trọng của CNHT trong thúc đẩy hệ thống các DNNVV phát triển.[147]

- Halim Mohd Noor, Roger Clarke, Nigel Driffield (2002), “Multinational cooperation and technological effort by local firm: a case study of the Malaysia Electronics and Electrical Industry” (Tập đoàn đa quốc gia và các nỗ lực công nghệ của doanh nghiệp địa phương: trường hợp nghiên cứu ngành công nghiệp điện và điện tử Malaysia). Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra những giải pháp phát triển CNHT cho ngành công nghiệp điện tử và đặc biệt nhấn mạnh vai trò quan trọng từ phía Chính phủ trong việc hỗ trợ đổi mới và phát huy sáng tạo của các doanh nghiệp nội địa nhằm cung ứng hỗ trợ cho ngành điện tử phát triển.[137]

- Tổ chức năng suất Châu Á (Asian productivtity Orgnisation), (2002), “Strengthening of supporting Industries: Asian Experiences” (Đẩy mạnh CNHT: các kinh nghiệm của Châu Á). Đây là tài liệu quan trọng và bổ ích cho các nước đang phát triển, tài liệu đã đúc kết kinh nghiệm phát triển CNHT, tập trung phân tích chính sách phát triển CNHT qua các thời kỳ ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan; đặc biệt, thông qua việc phân tích tình hình phát triển CNHT và các chính sách thúc đẩy CNHT phát triển ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan các tác giả đã chỉ rõ vai trò quan trọng của các chính sách bằng việc tập trung vào phân tích vai trò thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển CNHT,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/09/2022