Gắn Kết Chặt Chẽ Giữa Phát Triển Công Nghiệp Hỗ Trợ Với Hoạt Động Của Các Doanh Nghiệp Trong Một Số Ngành Công Nghiệp


Thứ ba, điều chỉnh một số chính sách tài chính hiện hành liên quan đến phát triển CNHT, có sự ưu tiên, trọng tâm từng giai đoạn phát triển. Trên cơ sở năm nhóm ngành công nghiệp hạ nguồn, xây dựng cơ chế thí điểm hỗ trợ và chia thành hai giai đoạn: (i) Trong tương lai gần nên áp dụng các ưu đãi hiện hành;

(ii) Tương lai xa hơn, xây dựng lại hệ thống các chính sách ưu đãi chung và ưu đãi riêng về tài chính, chi tiết từng đối tượng, từng ngành hạ nguồn.

(1) Chính sách ưu đãi về thuế:

- Đối với thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: lĩnh vực CNHT cần được ưu tiên tương tự như lĩnh vực “đặc biệt khuyến khích đầu tư”, để khi nhập khẩu hàng hóa được miễn thuế nhập khẩu. Cụ thể: (i) Hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định cho lĩnh vực CNHT được miễn thuế nhập khẩu (theo như quy định tại khoản 6 Điều 12 Nghị định 87/2010/NĐ-CP); (ii) Nguyên liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản xuất được nhập khẩu để sản xuất của các dự án đầu tư vào lĩnh vực CNHT được miễn thuế nhập khẩu trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày bắt đầu sản xuất (theo khoản 14 Điều 12 Nghị định 87/2010/NĐ-CP). Theo đó, đề nghị bổ sung vào Danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư (Mục A- Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định 108/2006/NĐ-CP) khi doanh nghiệp đầu tư sản xuất sản phẩm CNHT.

- Đối với thuế giá trị gia tăng (VAT): các sản phẩm, linh kiện được các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hạ nguồn chấp thuận và đặt hàng; các dự án sản xuất sản phẩm CNHT cho phát triển công nghệ cao, Chính phủ hỗ trợ thuế VAT thấp từ 5 -7% (mức thuế quy định là 10%) và có cơ chế miễn, giãn thuế VAT khi gặp điều kiện kinh tế khó khăn, nhằm kích cầu đầu tư và sử dụng sản phẩm CNHT trong nước đối với một số sản phẩm CNHT.

- Đối với thuế thu nhập doanh nghiệp, theo quy định của pháp luật hiện hành, các doanh nghiệp FDI được hưởng thuế suất thuế TNDN (10%), thấp hơn các doanh nghiệp trong nước và được miễn thuế TNDN trong 4 năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% cho 9 năm tiếp theo. Đề xuất, có ưu đãi tương tự đối với các doanh nghiệp nội địa hoạt động trong lĩnh vực hỗ trợ.


- Đối với thuế thu nhập cá nhân, người Việt Nam và người nước ngoài làm việc tại KCN, khu kinh tế được giảm 50% thuế thu nhập đối với người có thu nhập thuộc diện chịu thuế thu nhập,...

(2) Chính sách liên quan đến chi phí sản xuất: Các doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực CNHT không thuộc Danh mục lĩnh vực hoặc đặc biệt khuyến khích đầu tư (khoản A - Phụ lục I - Nghị định 108/2006/NĐ-CP), vì vậy không thuộc nhóm đối tượng được hưởng các ưu đãi về thuế sử dụng đất, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và tiền thuê mặt nước theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật về thuế (Điều 26, Nghị định 108/2006/NĐ-CP). Đề xuất bổ sung doanh nghiệp đầu tư lĩnh vực CNHT vào Danh mục lĩnh vực hoặc đặc biệt khuyến khích đầu tư để được hưởng ưu đãi này.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

(3) Chính sách tín dụng: nguồn vốn dành cho DNNVV là vốn ngắn hạn, trong khi các doanh nghiệp đang rất cần nguồn vốn trung và dài hạn. Để hỗ trợ DNNVV hiệu quả, ngành Ngân hàng cần tiếp tục xác định DNNVV là đối tượng ưu tiên. Nghiên cứu kinh nghiệm của Nhật Bản để thành lập hệ thống ngân hàng phục vụ các DNNVV, có cơ chế về bảo lãnh tín dụng, về thế chấp tài sản... Phát huy mạnh hơn nữa các kênh huy động vốn khác trên thị trường, xây dựng nhiều gói sản phẩm tiết kiệm đặc thù với thời hạn từ 12 tháng trở lên và tăng cường sự phối hợp nhịp nhàng từ các bộ, ngành, hiệp hội và bản thân doanh nghiệp.

Bộ Công thương chủ trì, phối hợp các bộ, ngành: (i) Rà soát, đề xuất điều chỉnh Quyết định 12/2011/QĐ-TTg; Quyết định 1483/QĐ-TTg để hoàn thiện cơ chế chính sách phát triển CNHT (ii) Sửa đổi Quyết định 1556/QĐ-TTg, có cơ chế ưu đãi đặc thù cho doanh nghiệp đầu tư vào KCN chuyên sâu, KCN hỗ trợ.

Công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam - Hà Thị Hương Lan - 18

(iii) Điều chỉnh các chính sách phát triển các ngành công nghiệp hạ nguồn, phát triển thị trường cho các ngành CNHT. Bổ sung danh mục các ngành CNHT trong hệ thống thống kê các ngành kinh tế kỹ thuật, để các doanh nghiệp có điều kiện tham gia sản xuất CNHT và phù hợp với thông lệ quốc tế.


4.2.1.3. Gắn kết chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp hỗ trợ với hoạt động của các doanh nghiệp trong một số ngành công nghiệp

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, phát triển CCN, KCN và CNHT có mối quan hệ mật thiết với nhau. Phát triển CCN tạo điều kiện, môi trường cho sự phát triển CNHT và ngược lại phát triển CNHT sẽ tạo điều kiện để các CCN phát triển có hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp tham gia cụm, ngành công nghiệp đó. Tăng cường sự gắn kết phát triển các KCN, CNN với sự phát triển của CNHT, tạo mạng liên kết sản xuất, hình thành chuỗi giá trị đáp ứng được nhu cầu cần thiết trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Tác giả đề xuất các giải pháp sau:

- Việt Nam cần phải đẩy mạnh việc giới thiệu nhu cầu phát triển và sử dụng sản phẩm hỗ trợ, nâng cao tính chuyên nghiệp của các hội chợ, chợ công nghiệp, triển lãm, hội thảo chuyên đề về phát triển CNHT. Xây dựng các chương trình hợp tác dài hạn với các đối tác chiến lược - các công ty, tập đoàn đa quốc gia về phát triển công nghiệp nói chung và CNHT nói riêng.

- Đổi mới mô hình tổ chức của các Viện nghiên cứu chuyên ngành để làm cầu nối giữa nghiên cứu - thiết kế - ứng dụng, gắn quá trình nghiên cứu với chuyển giao đưa vào sản xuất. Củng cố và nâng cao vai trò của các Hiệp hội ngành nghề, các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ ở Việt Nam làm đầu mối liên kết doanh nghiệp. Đổi mới cơ chế tổ chức, hoạt động của các Hiệp hội ngành nghề để có thể đóng vai trò đại diện cho ngành tìm kiếm, tiếp nhận tài trợ của Chính phủ và của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước thực hiện các giải pháp phát triển ngành, đầu mối xúc tiến đầu tư, phát triển thị trường, đề xuất các cơ chế, chính sách phát triển CNHT.

- Kêu gọi các tập đoàn sản xuất linh kiện xuất khẩu vào sản xuất tại Việt Nam. Đây sẽ là cơ hội cho các doanh nghiệp lớp dưới có thêm thị trường. Nhà nước cần có những chính sách tác động đến những yếu tố chi phối năng lực cạnh tranh, tăng trưởng, tạo môi trường thuận lợi, giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp.


- Thực hiện quy hoạch không gian công nghiệp. Không gian công nghiệp, là một tổ hợp các KCN có tính tương hỗ về kỹ thuật và kinh tế với hệ thống hạ tầng liên kết có các nguồn đầu vào đầy đủ, ổn định (nguyên vật liệu, nguồn nhân lực, hệ thống dịch vụ hoàn chỉnh từ dịch vụ tài chính đến các dịch vụ hàng hóa khác). Kinh nghiệm của Thái Lan, Trung Quốc đã chỉ ra, việc phát triển các KCN độc lập và quy hoạch không tốt sẽ không thúc đẩy liên kết sản xuất. Nếu quy hoạch tốt, đây sẽ là giải pháp căn bản để cắt giảm chi phí sản xuất, tạo lợi thế cạnh tranh và đặc biệt có thể hỗ trợ nhau trong nghiên cứu và phát triển sản phẩm.

Để thực hiện các giải pháp trên, Bộ Công thương chủ trì, phối hợp với VCCI, các tổ chức quốc tế, các tập đoàn đa quốc gia, các công ty lắp ráp lớn... tổ chức các Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp nội địa trở thành các nhà cung ứng cho các MNCs; Chương trình giới thiệu, kết nối chuyên gia nước ngoài về CNHT hỗ trợ trực tiếp các doanh nghiệp nội địa; các hội chợ, triển lãm...

4.2.1.4. Đa dạng hóa công nghiệp hỗ trợ hướng vào sản phẩm có giá trị gia tăng cao và bảo vệ môi trường sinh thái, tài nguyên

Thực tế cho thấy, sản xuất sản phẩm CNHT tinh xảo là yếu tố quan trọng nếu Việt Nam muốn duy trì mức tăng trưởng ấn tượng. Việc ban hành Luật Công nghệ cao chính là cam kết của Chính phủ nhằm đa dạng hóa các hoạt động thâm dụng. Một bước quan trọng trước khi tiến hành thực hiện các chiến lược phát triển nguồn nhân lực hoặc công nghệ đó là việc xác định và tập trung vào những ngành công nghiệp trọng điểm, trong đó cân nhắc đến tính năng động của thị trường quốc tế, những kỹ năng, công nghệ, cơ sở hạ tầng hiện có và tính cạnh tranh trong khu vực… Để phát triển CNHT hiệu quả, bền vững và gắn với bảo vệ môi trường sinh thái. Các ngành CNHT phát triển phải lựa chọn công nghệ thích hợp, thân thiện, giảm thiểu tối đa ô nhiễm môi trường. Các doanh nghiệp CNHT phải đảm bảo các yêu cầu tối thiểu của Nhà nước và các đối tác trong ngành công nghiệp hạ nguồn, áp dụng các hệ thống quản lý tiêu chuẩn môi trường quốc gia, tiến tới đạt các tiêu chuẩn môi trường quốc tế. Công nghệ xử lý chất thải phải tiên tiến, đồng bộ và áp dụng công nghệ sạch vào sản xuất, giảm bớt chất thải và nguyên nhiên liệu tiêu thụ. Tác giả đề xuất một số giải pháp sau:


- Xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại để hỗ trợ các DNNVV sản

xuất linh, phụ kiện công nghệ cao đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp lớn.

- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao. Đây là khâu then chốt để gia tăng giá trị sản phẩm CNHT.

- Nâng cấp các hoạt động CNHT hiện tại để có thể trở thành sản phẩm cạnh tranh với chi phí hợp lý; từng bước loại bỏ những sản phẩm không còn sức cạnh tranh và ít có triển vọng cạnh tranh trong tương lai; xúc tiến các hoạt động CNHT mới giàu tiềm năng tăng trưởng, tạo việc làm và phát triển công nghệ.

- Nhà nước cần có những chính sách thích hợp, tập hợp các doanh nghiệp này trong các KCN, khu CNHT tập trung, sử dụng chung hệ thống xử lý chất thải. Không bố trí các KCN, khu CNHT gần các khu lịch, khu đông dân cư, văn hóa,… Không phê duyệt, cấp phép xây dựng các dự án đầu tư và triển khai xây dựng khi chưa có đánh giá tác động môi trường.

- Khuyến khích các doanh nghiệp đưa tiêu chí về trình độ công nghệ và bảo vệ môi trường lên vị trí quan trọng khi xem xét lựa chọn; đầu tư đổi mới trang thiết bị, áp dụng công nghệ hiện đại nhằm giảm thiểu chất thải, thực hiện sản xuất sạch, kiểm soát các chất gây ô nhiễm môi trường không khí tại nơi sản xuất.

- Xây dựng hệ thống xử lý chất thải tập trung cho các KCN, khu CNHT. Hoàn thiện việc xử lý ô nhiễm với các dự án liên quan đến các ngành công nghiệp, các cơ sở CNHT phân tán.

Để thực hiện tốt giải pháp trên, Chính phủ Việt Nam cần phải ban hành các chính sách, quy chế, huy động mọi nguồn lực trong cộng đồng để bảo vệ môi trường, nghiên cứu tái sử dụng chất thải cho sản xuất…. Tổ chức điều tra quan trắc, lưu trữ, cập nhật các thông tin về chất lượng môi trường phục vụ công tác quy hoạch, kế hoạch và quản lý địa phương. Tiến hành đánh giá xếp hạng các KCN và doanh nghiệp hỗ trợ theo hướng công nghệ cao thân thiện với môi trường. Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra của cơ quan chức năng đối với hoạt động việc thực hiện cam kết, xử lý chất thải, bảo vệ môi trường.


4.2.1.5. Phát triển cụm liên kết ngành gia tăng năng suất, nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm công nghiệp hỗ trợ

Cụm liên kết ngành được hình thành từ sự tập trung cao độ các doanh nghiệp trong một số ngành và lĩnh vực có liên quan khá chặt chẽ với nhau, trong đó không thể không tính đến vai trò của các doanh nghiệp hỗ trợ. Sự lớn mạnh của một CLKN thường kéo theo sự gia tăng và phát triển bền vững của các doanh nghiệp trong ngành CNHT. Các doanh nghiệp trong cụm sẽ có mối liên kết cùng cạnh tranh nhưng cùng hợp tác, từ đó nâng cao sức cạnh tranh của chính doanh nghiệp; và có cơ hội tiếp cận với nguồn vốn đầu tư, thị trường đầu tư và dây chuyền công nghệ hiện đại. Từ năm 2009, Dự án Phát triển cụm các DNNVV đã được Chính phủ Italia phối hợp với Cục Phát triển doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Ðầu tư) khởi động, nhằm lựa chọn và phát triển tối đa 3 cụm hoặc mạng lưới DNNVV Việt Nam trên một số lĩnh vực mũi nhọn tại Thủ đô Hà Nội, tỉnh Hưng Yên, Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bình Dương, để tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu cùng các doanh nghiệp Italia. Thực tế ở Việt Nam, các CLKN đang hình thành tự phát, phát triển không bền vững, kém năng động, đặc biệt có rất ít liên kết giữa các doanh nghiệp trong cụm với các doanh nghiệp và chủ thể kinh tế khác bên ngoài cụm. Tác giả đề xuất một số giải pháp sau:

- Việt Nam phải có chính sách cho việc phát triển CLKN, tăng cường nâng cao nhận thức về CLKN, xây dựng và hoàn thiện quy hoạch phát triển KCN - CCN của ngành, địa phương gắn với định hướng chính sách phát triển CLKN. Lựa chọn lĩnh vực và xây dựng một số mô hình CLKN trong các ngành, lĩnh vực tiềm năng, xây dựng cơ quan quản lý chính sách CLKN cũng như phân định chức năng quản lý nhà nước của các cấp chính quyền.

- Về mô hình CLKN, hiện nay nhiều doanh nghiệp Thái Lan, Malaysia, đang áp dụng mô hình của Nhật Bản, là loại mô hình sản xuất tích hợp, theo đó thường các linh phụ kiện, chi tiết của mỗi máy móc, thiết bị hay sản phẩm có tiêu chuẩn kích cỡ riêng. Việc sản xuất, chế tạo chúng thường theo một công nghệ khép kín. Ðặc biệt, mô hình này thường gắn kết chặt chẽ với CLKN để sử


dụng lợi thế khoảng cách địa lý và sự gắn kết chặt chẽ với các doanh nghiệp FDI. Việt Nam nên chọn mô hình tích hợp của Nhật Bản để phát triển CNHT gắn với CLKN trong sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp nội địa sẽ là một hướng đi đúng, có triển vọng.

4.2.1.6. Thiết kế và quản trị cơ sở dữ liệu về công nghiệp hỗ trợ

CNHT ở Việt Nam chưa phát triển, một nguyên nhân sâu xa là do các nhà sản xuất và lắp ráp nước ngoài thiếu thông tin về các doanh nghiệp cung cấp linh kiện trong nước. Phát triển CSDL về CNHT sẽ giúp các nhà lắp ráp có vốn đầu tư nước ngoài rút ngắn thời gian lựa chọn nhà cung cấp. Trang vàng Việt Nam có dữ liệu của 60 ngàn công ty hay danh bạ doanh nghiệp Việt Nam của VCCI cũng có dữ liệu của khoảng 20 ngàn doanh nghiệp. Nhưng thông tin từ các danh bạ này quá bao quát, sơ sài và hạn chế. Những thông tin này chưa đủ để giúp các nhà lắp ráp có vốn nước noài rút ngắn thời gian tìm kiểm sơ bộ. Vì vậy, rất cần thiết phải xây dựng CSDL về CNHT. Sự khác biệt chủ yếu giữa CSDL về CNHT với danh bạ doanh nghiệp là chiều sâu dữ liệu của mỗi doanh nghiệp. Một CSDL cho CNHT đòi hỏi các nội dung cụ thể và cập nhật hơn nhiều. Qua nghiên cứu và dựa trên các CSDL về CNHT của Nhật Bản và Thái Lan, tác giả đề xuất các nội dung cơ bản CSDL về CNHT như sau:

- Cần có kế hoạch tổng thể, dài hạn và có lộ trình cụ thể xây dựng CSDL về CNHT quốc gia. Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) chủ trì xây dựng và đưa lên WEBSITE của Tổng cục Thống kê. Các Cục Thống kê căn cứ nội dung và kế hoạch xây dựng WEBSITE và đưa lên WEBSITE của tỉnh, thành phố.

- Tổng cục Thống kê và các Cục Thống kê tỉnh, thành phố cần sớm đầu tư

triển khai hệ thống thu thập báo cáo thống kê định kỳ hàng tháng.

- Cần phải có sự phối hợp tốt giữa Bộ Kế hoạch Đầu tư (Tổng cục Thống kê), Tổng Cục Thuế, Tổng Cục Hải quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trong công tác tuyên truyền, vận động, hướng dẫn để các doanh nghiệp lĩnh vực CNHT tích cực tham gia đăng ký cập nhật dữ liệu và quá trình hoạt động của mình phục vụ cho việc xây dựng CSDL về CNHT quốc gia.


- Xây dựng cơ chế giám sát, kiểm tra tính chính xác của dữ liệu cập nhật. Xây dựng tiêu chí để doanh nghiệp kê khai, cập nhật vào CSDL. Việc lựa chọn tiêu chí cũng rất quan trọng. Nếu chọn nhiều tiêu chí sẽ tốn kém khi thu thập và khi không cập nhật được các tiêu chí đó sẽ gây lãng phí và khi các tiêu chí đó lạc hậu sẽ ảnh hưởng đến lòng tin của khách hàng khi khai thác dữ liệu.

- Đầu tư thích hợp để nâng cấp hệ thống máy tính và mạng để có sự đồng bộ giữa các tỉnh, thành phố. Cần phải tiến hành bảo hành, bảo trì thường xuyên để nâng cao tuổi thọ và hiệu quả của hệ thống máy tính và mạng được trang bị.

- Xây dựng kinh phí hàng năm cho công tác cập nhật dữ liệu, kinh phí cho việc truy cập mạng của các đơn vị sử dụng và kinh phí cho các công tác hoàn thiện nâng cấp hệ quản trị CSDL.

Cần xây dựng Cơ sở dữ liệu về CNHT quốc gia


“Cơ sở dữ liệu CNHT quốc gia” giúp trong việc truy cập, tra cứu CSDL về CNHT để có thông tin, dữ liệu hoạt động về doanh nghiệp CNHT; việc tra cứu có thể tại cơ quan, đơn vị hoặc đang đi công tác… từ máy tính để bàn, các phương tiện điện tử cá nhân như Ipad, Iphone… (Phụ lục 1)

- Thông tin “Cơ sở dữ liệu CNHT quốc gia” gồm những nội dung chính sau: (i) Tên doanh nghiệp (công ty), địa chỉ, người đại diện, điện thoại, fax, web; chính sách của doanh nghiệp, năm thành lập, chi nhánh trong và nước ngoài (nếu có), loại hình kinh doanh, lĩnh vực kinh doanh, sản phẩm chính; (ii) Lợi nhuận, lãnh đạo doanh nghiệp (tuổi, trình độ đào tạo, thái độ,…), chiến lược, người kế nhiệm; (iii) Doanh số bán hàng hàng năm, tổng vốn, trang thiết bị sản xuất, độ chính xác chế tạo, khách hàng chính, số lao động, chứng chỉ chất lượng.

- Về nguyên tắc doanh nghiệp không có nghĩa vụ phải công khai toàn bộ thông tin của mình trên CSDL về CNHT, có thể tham gia vào CSDL trên tinh thần hoàn toàn tự nguyện.

Xem tất cả 201 trang.

Ngày đăng: 25/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí