Phương Hướng Và Quan Điểm Giải Pháp Tiếp Tục Hoàn Thiện Cơ Sở Pháp Lý Cho Hội Nhập Quốc Tế Trong Lĩnh Vực Kh&cn

Công ước Berne 1886, Công ước Rome 1961...đều đã khẳng định vai trò quan trọng của sở hữu trí tuệ trong sản xuất, kinh doanh thương mại. Đặc biệt, Hiệp định TRIPS trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được ký ngày 15-4-1994 đã làm thay đổi bộ mặt của hệ thống sở hữu trí tuệ thế giới. Hiệp định TRIPS là một Hiệp định đa phương toàn diện nhất cho đến thời điểm hiện nay về sở hữu trí tuệ. Phạm vi điều chỉnh của Hiệp định TRIPS rất rộng, trong đó bao gồm nhiều lĩnh vực sở hữu trí tuệ như: quyền tác giả, nhãn hiệu hàng hóa, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng công nghiêp... đã được quy định một cách cụ thể. Khi tham gia vào Hiệp định TRIPS-WTO, các nước thành viên có nghĩa vụ dành cho công dân của nước thành viên khác sự bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ một cách đầy đủ và có hiệu quả. Việc một nước thành viên không tuân thủ các nghĩa vụ theo Hiệp định TRIPS có thể đẩy mình đối diện với những phán quyết bất lợi của WTO trong hoạt động thương mại.

Khi Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO (năm 1995) có rất nhiều trở ngại cần phải giải quyết, đặc biệt là hệ thống pháp luật trong nước. Yêu cầu đặt ra là phải đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có hệ thống sở hữu trí tuệ theo hướng phù hợp với các tiêu chuẩn của Hiệp định TRIPS-WTO. Như chúng ta biết, tại thời điểm 1995, hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ chủ yếu là những văn bản dưới luật (hiệu lực pháp lý không cao) như Pháp lệnh Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp 1989, Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả 1994..., nội dung cũng còn nhiều điểm chưa phù hợp, chưa đầy đủ theo thông lệ quốc tế.

Ngày 28-10-1995, Bộ Luật Dân sự (BLDS) được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 8 thông qua đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Lần đầu tiên, quyền sở hữu trí tuệ được thừa nhận như là một quyền dân sự (quy định tại phần VI của Bộ luật) và được cơ quan quyền lực cao nhất thông qua. Tuy vậy, một số đối tượng sở hữu trí tuệ đã được Hiệp định TRIPS bảo hộ nhưng vẫn chưa được quy định trong Bộ luật này như tên thương mại, thông tin bí mật, chỉ dẫn địa lý... với lý do “chưa có thực tiễn” ở nước ta. Những năm sau đó, bằng những Nghị định của Chính phủ, dần dần Việt Nam đã có quy định về các lĩnh vực này và cơ bản đạt được các

yêu cầu của Hiệp định TRIPS về một hệ thống văn bản đầy đủ để bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.

Năm 2005, Bộ Luật Dân sự mới đã được ban hành thay thế cho BLDS 1995, các quy định về sở hữu trí tuệ tiếp tục khẳng định theo hướng là những “quy định gốc” làm cơ sở cho việc ban hành một đạo luật riêng về lĩnh vực này. Cũng trong năm 2005, Luật Sở hữu trí tuệ đã được Quốc hội thông qua (tiếp tục được sửa đổi, bổ sung vào năm 2009) đã thể hiện quyết tâm của Nhà nước trong việc thúc đẩy bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và tích cực hội nhập quốc tế.

Việc ban hành Luật Sở hữu trí tuệ và một loạt các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo ra một hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ và là hành lang pháp lý an toàn, khuyến khích các hoạt động sáng tạo và bảo hộ thành quả của lao động sáng tạo. Điều quan trọng nữa là tạo ra sự phù hợp hơn của các quy định về sở hữu trí tuệ với các chuẩn mực quốc tế, các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO.

Trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử, đến nay, Việt Nam đã ký các Hiệp định hợp tác hạt nhân dân sự với Nga, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Pháp, Ấn Độ, Argentina. Mới đây, ngày 06/5/2014, Việt Nam và Mỹ đã ký chính thức Hiệp định hợp tác giữa hai quốc gia về sử dụng hòa bình năng lượng hạt nhân (Hiệp định 123). Mỹ là nước thứ 8 Việt Nam ký thỏa thuận hợp tác về hạt nhân dân sự.

Hiệp định 123 được ký kết trên tinh thần của Mục 123 về “Hợp tác với các quốc gia khác” trong Luật Năng lượng nguyên tử năm 1954 Mỹ nhằm điều chỉnh các giao dịch thương mại trong lĩnh vực năng lượng hạt nhân và tạo khung pháp lý để tăng cường hợp tác giữa Việt Nam với các đối tác Mỹ trong các hoạt động nghiên cứu, đào tạo, phát triển và ứng dụng năng lượng nguyên tử, đặc biệt trong phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam. Hiệp định này là cơ sở để Việt Nam có thể tiếp nhận công nghệ hạt nhân tiên tiến, hiện đại trực tiếp hoặc có nguồn gốc từ Mỹ cho các dự án điện hạt nhân của Việt Nam. Việc ký Hiệp định đánh dấu bước tiến quan trọng về sự tin cậy trong quan hệ hợp tác giữa

Việt Nam và Mỹ về sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình. Bên

cạnh đó, Hiệp định sẽ mở ra những triển vọng to lớn cho cả hai bên trong việc thúc đẩy những dự án hợp tác cụ thể về ứng dụng bức xạ cũng như phát triển điện hạt nhân phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước. Phạm vi hợp tác của Hiệp định gồm phát triển việc sử dụng năng lượng hạt nhân; nghiên cứu, phát triển và ứng dụng công nghệ lò phản ứng hạt nhân dân sự, quản lý nhiên liệu đã qua sử dụng; đào tạo, phát triển cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực; nghiên cứu, ứng dụng đồng vị phóng xạ trong công nghiệp, nông nghiệp, y tế và môi trường; bảo vệ bức xạ, quản lý chất thải phóng xạ, nhiên liệu đã qua sử dụng; an toàn, an ninh, thanh sát và không phổ biến hạt nhân. Hiệp định cũng quy định chỉ chuyển giao nhiên liệu urani có độ giàu thấp và các vật liệu, thiết bị được chuyển giao để thực hiện các ứng dụng theo khuôn khổ của Hiệp định. Hiệp định có hiệu lực 30 năm, có hiệu lực với mỗi giai đoạn là 5 năm và có thể được sửa đổi khi có thỏa thuận giữa hai bên thông qua đường ngoại giao.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

Thông qua việc ký kết các thỏa thuận quốc tế, Việt Nam cũng đã bước đầu tiếp cận được với một số lĩnh vực khoa học mới. Chẳng hạn như trong lĩnh vực khai thác khoảng không vũ trụ, do trình độ khoa học, công nghệ vũ trụ của nước ta còn kém phát triển nên hợp tác quốc tế, tiếp thu kinh nghiệm và công nghệ để phát triển nhanh chóng, bền vững và đạt được kết quả cao là mục tiêu hàng đầu trong giai đoạn hiện nay của ngành vũ trụ nước ta. Mới đây, ngày 04/7/2014, Hạ viện Nga đã phê chuẩn thỏa thuận hợp tác với Việt Nam về nghiên cứu và sử dụng không gian bên ngoài vũ trụ cho mục đích hòa bình.

Theo tuyên bố từ Hạ viện Nga, thỏa thuận nói trên sẽ cung cấp khung pháp lý và thể chế cho các chương trình nghiên cứu và hoạt động liên quan đến việc thăm dò, sử dụng không gian bên ngoài vũ trụ và các ứng dụng thực tế của công nghệ vũ trụ vì mục đích hòa bình. Thỏa thuận cũng điều chỉnh các vấn đề liên quan tới bảo vệ tài sản sở hữu trí tuệ và trao đổi thông tin, cũng như giấy phép sử dựng công nghệ trong phạm vi lãnh thổ của nước nhập khẩu; cung cấp quyền miễn trừ thuế đối với hàng hóa và vật dụng liên quan tới hợp tác vũ trụ, theo ITAR-TASS.

Cơ sở pháp lý cho việc hội nhập quốc tế của Việt Nam trong lĩnh vực khoa học và công nghệ - 12

Để xây dựng hành lang pháp lý cho các hoạt động hợp tác quốc tế trong

lĩnh vực vũ trụ, chúng ta cần xây dựng các quy định về việc quản lý và thực hiện các chương trình hợp tác quốc tế trong hoạt động quản lý, khai thác và sử dụng khoảng không vũ trụ dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Trong tiến trình hội nhập quốc tế, Việt Nam cần khẩn trương nghiên cứu nhằm đẩy nhanh việc gia nhập, ký kết các điều ước quốc tế quan trọng về hoạt động vũ trụ. Hoạt động này tất yếu sẽ dẫn đến việc nội luật hóa và thực thi các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên trong lĩnh vực hoạt động vũ trụ.

Như vậy, có thể thấy, nội dung các điều ước, thỏa thuận quốc tế về KH&CN mà Việt Nam đã ký kết, tham gia ngày càng có xu hướng mở rộng, bao phủ các lĩnh vực KH&CN tiên tiến trên thế giới. Đây không những là thành công trong chính sách xây dựng cơ sở pháp lý và cũng là cơ hội lớn để nâng tầm vị thế của Việt Nam trong bản đồ chung của nền KH&CN thế giới.

2.2. Phương hướng và quan điểm giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN

2.2.1. Phương hướng


Hợp tác và hội nhập quốc tế về KH&CN là một trong những nội dung quan trọng trong chính sách tích cực và chủ động hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Hiện nay, công tác xây dựng chính sách pháp luật hội nhập quốc tế về KH&CN trước hết phải quán triệt đầy đủ và nghiêm túc các quan điểm, chính sách tích cực và chủ động hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó cần lĩnh hội quan điểm hội nhập quốc tế về KH&CN nói riêng của Đảng và Nhà nước được thể hiện trực tiếp trong các văn kiện sau đây [12, 58]:

- Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế;

- Quyết định số 37/2002/QĐ-TTg ngày 14/3/2002 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 07- NQ/TW ngày 27/11/2011 của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế;

- Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 5/2/2007 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Khóa X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới;

- Nghị quyết số 16/2007/NQ-CP ngày 27/2/2007 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiên Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 5/2/2007 của Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Khóa X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới;

- Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 1/11/2012 của Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI của Đảng “Về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” (Nghị quyết TW6);

Nghị quyết TW6 khẳng định các quan điểm cơ bản và cũng là phương hướng về hợp tác và hội nhập quốc tế về KH&CN như sau:

“Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để cập nhật tri thức khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới, thu hút nguồn lực và chuyên gia, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia các dự án khoa học và công nghệ của Việt Nam. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để sinh viên, nghiên cứu sinh, thực tập sinh sau khi được đào tạo ở nước ngoài về nước làm việc.”

Như vậy, về nội dung, Nghị quyết TW6 vừa khẳng định lại những quan điểm chung nhất quán của Đảng ta về hội nhập quốc tế, vừa cụ thể hóa quan điểm chung đó vào lĩnh vực cụ thể là hội nhập quốc tế về KH&CN.

Với quan điểm nêu trên của Đảng, chúng ta cần định hướng hoàn thiện hệ thống quy định nhằm đưa hoạt động hợp tác quốc tế về KH&CN của chúng ta vượt lên trên quan niệm truyền thống của một nước đang phát triển về hợp tác quốc tế và vươn lên tầm hội nhập quốc tế về KH&CN, thậm chi tiến tới phải tham gia ngày càng tích cực vào quá trình toàn cầu hóa về KH&CN. Thực tiễn

những năm qua, đặc biệt mấy năm gần đây chúng ta đã chuẩn bị và đã từng bước thúc đẩy hoạt động hợp tác quốc tế về KH&CN theo hướng này [12, 59].

Để thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng về hội nhập quốc tế, các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước đã kịp thời ban hành các văn bản về vấn đề này để thể chế hoá các quy định của Đảng như đã trình bày tại Chương 2 (Mục 2.1) của Luận văn này, đặc biệt trực tiếp và mới nhất là Quyết định số 735/QĐ-TTG ngày 18/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Hội nhập quốc tế về KH&CN đến năm 2020 và Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 9/11/2012 của Thủ tướng Chính phủ về một số biện pháp triển khai chủ trương chủ động và tích cực hội nhập quốc tế nhằm thực hiện chủ trương nhất quán của Đảng về hội nhập quốc tế nói chung và về hội nhập quốc tế về KH&CN nói riêng. Nội dung hai văn bản này hoàn toàn phù hợp với các quy định của Nghị quyết TW6 về hội nhập quốc tế về KH&CN và vấn giữ nguyên giá trị cũng như hiệu lực sau khi Đảng ban hành Nghị quyết TW6.

Đề án Hội nhập quốc tế về KH&CN đến năm 2020 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cũng đã cụ thể hóa và khẳng định quan điểm cơ bản nêu trên của Nhà nước ta trong lĩnh vực hội nhập quốc tế về KH&CN như sau:

- Tích cực, chủ động hội nhập quốc tế về KH&CN, bảo đảm độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia, bình đẳng và cùng có lợi.

- Đa dạng hóa, đa phương hóa hợp tác, đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực KH&CN.

- Phát triển thị trường KH&CN Việt Nam theo quy luật, chuẩn mực và hội nhập với thị trường thế giới.

- Tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước tiên tiến, tranh thủ tối đa các cơ hội để nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đặc biệt công nghệ cao.

Mục tiêu hội nhập quốc tế về KH&CN của nước ta được xác định là nhằm đưa Việt Nam trở thành nước mạnh trong một số lĩnh vực KH&CN vào năm 2020 phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, rút ngắn

khoảng cách về trình độ KH&CN với khu vực và thế giới. Cụ thể là đến năm 2015 đội ngũ cán bộ KH&CN Việt Nam có đủ năng lực trực tiếp tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của khu vực và thế giới trong một số lĩnh vực ưu tiên, trọng điểm; đến năm 2020, tổ chức KH&CN, doanh nghiệp Việt Nam trong một số lĩnh vực ưu tiên, trọng điểm có đủ năng lực hợp tác với các đối tác nước ngoài, tiếp thu, làm chủ, đổi mới và sáng tạo công nghệ, một số kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong lĩnh vực vực ưu tiên, trọng điểm của nước ta xác lập được vị trí trong thị trường khu vực và thế giới [12, 60].

Thực hiện chủ trương của Đảng, Luật KH&CN năm 2013 mới được ban hành đã đưa ra nguyên tắc chung nhằm định hướng cho hoạt động hội nhập quốc tế về KH&CN và quy định các hoạt động hội nhập quốc tế về KH&CN làm căn cứ cho việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật.

Trên cơ sở định hướng của Đảng và quy định của Luật KH&CN, chúng ta cần triển khai tổng thể việc tổng kết thực tiễn thi hành các quy định liên quan đến hợp tác, hội nhập quốc tế về KH&CN trong các văn bản hiện hành để đưa ra đánh giá tổng quan về tính khả thi, đồng bộ của các quy định. Từ đó, đưa ra giải pháp hoàn thiện tổng thể các quy định hiện hành.

2.2.2. Giải pháp và kiến nghị phương án tiếp tục hoàn thiện các quy định về hội nhập quốc tế trong lĩnh vực KH&CN

2.2.2.1. Giải pháp


Hướng tới mục tiêu thúc đẩy hội nhập quốc tế về KH&CN, chúng ta phải xây dựng cơ chế, hoàn thiện chính sách pháp luật cho hội nhập quốc tế để thực hiện thành công một số nhiệm vụ/biện pháp cụ thể:

Nhóm nhiệm vụ/biện pháp thứ nhất – xây dựng cơ sở pháp lý về đẩy

mạnh các hoạt động nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ KH&CN, cán bộ

quản lý:


- Liên kết với các đối tác có tiềm lực mạnh về KH&CN của nước ngoài để triển khai các chương trình đào tạo, bồi dưỡng trong một số lĩnh vực

KH&CN ưu tiên để hình thành các nhóm, tập thể KH&CN mạnh, có thể tổ chức và tham gia các hoạt động KH&CN quốc tế;

- Đẩy mạnh xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án nghiên cứu chung trong khuôn khổ thỏa thuận song phương, đa phương, khu vực, liên khu vực và quốc tế;

- Thu hút các chuyên gia, nhà khoa học và công nghệ Việt Nam ở nước ngoài, các chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài tham gia vào các chương trình, dự án nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ và các chương trình đào tạo đại học và sau đại học tại Việt Nam;

- Tạo điều kiện để cán bộ KH&CN tham gia các chương trình, dự án nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ quốc tế, các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc, APEC, ASEM, ASEAN, các hiệp hội ngành khu vực và quốc tế;

- Nâng cao trình độ ngoại ngữ cho cán bộ KH&CN và cán bộ quản lý đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế về KH&CN.

Nhóm nhiệm vụ/biện pháp thứ hai – ban hành hệ thống chính sách về

đẩy mạnh các hoạt động huy động các nguồn lực cho hoạt động hội nhập

quốc tế về KH&CN:


- Ưu tiên bố trí kinh phí từ ngân sách nhà nước dành cho phát triển KH&CN để hỗ trợ có hiệu quả cho các hoạt động hội nhập quốc tế về KH&CN;

- Huy động các nguồn vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển KH&CN của Việt Nam;

- Đổi mới cơ chế tài chính cho hoạt động KH&CN phù hợp với thông lệ quốc tế, hình thành quỹ đầu tư mạo hiểm phát triển công nghệ cao và doanh nghiệp công nghệ cao.

Nhóm nhiệm vụ/biện pháp thứ ba – hoàn thiện các quy định về đẩy

mạnh đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, môi trường làm việc cho các nhà

khoa học


- Xây dựng môi trường làm việc thuận lợi, hấp dẫn, đơn giản, gọn nhẹ về

Xem tất cả 123 trang.

Ngày đăng: 25/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí