Sự liên kết, phối hợp giữa các bộ phận cấu thành hệ thống càng chặt chẽ, tương tác giữa các bộ phận hợp thành ở trình độ càng cao thì sự phát triển hài hòa được đảm bảo, hệ thống càng phát triển và cơ hội đem lại kết quả càng cao, hiệu quả càng lớn; Cơ cấu của nền kinh tế được hợp thành bởi nhiều phần tử của nền kinh tế, và các phần tử này có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại trong những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể; Chính vì vậy, cơ cấu kinh tế một đơn vị sẽ có những đặc điểm khác nhau, phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của đơn vị đó trong mỗi thời kỳ nhất định.
Với cách tiếp cận nền kinh tế như một hệ thống, người ta phân tích cơ cấu kinh tế theo các góc độ chủ yếu như sau:
Cơ cấu kinh tế theo ngành.
Cơ cấu kinh tế theo vùng, lãnh thổ.
Cơ cấu kinh tế theo các thành phần kinh tế
Khi xem xét cơ cấu nền kinh tế theo ngành, ta có ba cách tiếp cận:
Cơ cấu ngành kinh tế theo ba khu vực, theo cách tiếp cận này nền kinh tế được chia thành ba nhóm ngành lớn: nhóm ngành nông, lâm, ngư nghiệp; nhóm ngành công nghiệp, xây dựng và nhóm ngành dịch vụ; Mỗi nhóm ngành có đặc điểm và vai trò riêng. Ba nhóm ngành này bao gồm 21 ngành cấp I như: nông nghiệp, công nghiệp chế biến, công nghiệp khai thác, sản xuất phân phối điện nước, xây dựng, thương nghiệp…Các ngành cấp I được chia nhỏ thành các ngành cấp II như trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp… Các ngành cấp II lại được phân nhỏ thành các ngành sản phẩm: trồng cây hằng năm… Tại Việt Nam theo quyết định số 10/2007/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ, hệ thống nền kinh tế Việt Nam được chia thành 5 cấp: Ngành cấp 1 gồm 21 ngành; ngành cấp 2 gồm 88 ngành, ngành cấp 3 gồm 242 ngành, ngành cấp 4 gồm 437 ngành và ngành cấp 5 gồm 642 ngành.
Cơ cấu ngành kinh tế theo ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp. Đối với các quốc gia đang phát triển, việc phân chia cơ cấu ngành kinh tế theo tiêu chí này có ý nghĩa to lớn. Việc di chuyển dân cư nông thôn sang sống ở các đô thị và lao
Có thể bạn quan tâm!
- Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giai đoạn 2015-2025 - 1
- Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên địa bàn huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giai đoạn 2015-2025 - 2
- Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Chuyển Dịch Cơ Cấu Kinh Tế
- Kinh Nghiệm Của Một Số Địa Phương Về Chuyển Dịch Cơ Cấu Ngành Kinh Tế Và Bài Học Kinh Nghiệm Cho Huyện Tân Thành
- Thực Trạng Chuyển Dịch Cơ Cấu Ngành Kinh Tế Trong Quá Trình Công Nghiệp Hoá, Hiện Đại Hoá Trên Địa Bàn Huyện Tân Thành, Tỉnh Bà Rịa- Vũng
Xem toàn bộ 100 trang tài liệu này.
động nông nghiệp sang làm việc trong các khu vực phi nông nghiệp có tính quy luật tiến tới hiện đại; sự chuyển dịch cơ cấu này đến mức độ nào đó thì nền kinh tế được coi là đã phát triển.
Cơ cấu nhóm các ngành sản xuất và các ngành dịch vụ; Mối quan hệ giữa hai nhóm ngành này đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế, nó thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa các ngành sản xuất ra sản phẩm vật chất và ngành sản xuất ra các sản phẩm dịch vụ; Giữa hai nhóm ngành này có mối quan hệ tương hỗ không tách rời. Dịch vụ giúp tái sản xuất sức lao động và mở rộng thị phần cho các ngành sản xuất kinh doanh chính vì vậy nếu ngành sản xuất phát triển trong khi ngành dịch vụ không có sự phát triển tương xứng thì sẽ làm cho ngành sản xuất dần đi vào ngưng trệ.
Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả tiếp cận cơ cấu nền kinh tế theo ngành: cụ thể nền kinh tế được phân tích theo ba khu vực: khu vực I: bao gồm các ngành nông nghiệp – lâm nghiệp và ngư nghiệp; khu vực II bao gồm các ngành: công nghiệp, xây dựng; khu vực III bao gồm các ngành dịch vụ.
1.1.2. Khái niệm về cơ cấu ngành kinh tế
Ngành kinh tế là một khái niệm dùng để chỉ bất kỳ hoạt động kinh tế nào được phân loại theo sản phẩm hay dịch vụ cung cấp. Có thể hiểu ngành kinh tế là tập hợp những doanh nghiệp, hay cơ sở sản xuất, hộ kinh doanh, cá thể sản xuất nhằm cung cấp ra sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ cuối cùng có tính chất giống nhau; Tập hợp tất cả các ngành khác nhau trong hệ thống kinh tế quốc dân tạo nên cơ cấu ngành kinh tế của nền kinh tế.
Như vậy, cơ cấu ngành kinh tế là tập hợp các ngành trong nền kinh tế, thể hiện mối tương quan về cả chất và lượng giữa các ngành kinh tế với nhau trong khoảng thời gian, không gian và điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Cơ cấu ngành kinh tế thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, số lượng các ngành trong nền kinh tế. Khi nền kinh tế còn ở trình độ thấp, trong nền kinh tế quốc dân chỉ xuất hiện một số ngành, lĩnh vực nhất định: ngành nông nghiệp, thương nghiệp…Tuy nhiên theo thời gian, cùng với sự phát
triển của nền kinh tế, số lượng các ngành, lĩnh vực ngày càng được mở rộng và sự phân biệt ranh giới giữa các ngành ngày càng khó xác định. Từ đầu thế kỷ 19, nhà kinh tế học Collin Class đã chia nền kinh tế thành ba nhóm ngành căn cứ vào tính chất chuyên môn hóa của sản xuất: khai thác tài nguyên thiên nhiên (bao gồm nông nghiệp và khai thác khoáng sản), công nghiệp chế biến và sản xuất sản phẩm vô hình. Sau này, liên hợp quốc (UN) căn cứ vào tính chất của hoạt động sản xuất đã chuyển hoạt động khai thác khoáng sản sang ngành công nghiệp và gọi sản xuất ra sản phẩm vô hình là dịch vụ. Ở mỗi nước với trình độ phát triển khác nhau cũng có sự phân chia các ngành này theo nguyên tắc riêng biệt. Tại Mỹ, theo tiêu chuẩn phân loại công nghiệp (Standard Industrial Classification), nền kinh tế được chia thành các nhóm ngành cụ thể, mỗi nhóm ngành được mã hóa bằng một dãy có bốn số (ví dụ: 0800: ngành lâm nghiệp). Tại Nhật Bản, nền kinh tế được phân thành năm nhóm ngành lớn đó là: Nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp; xây dựng; công nghiệp chế tạo, chế biến; dịch vụ; dịch vụ chính phủ (dịch vụ công). Tại Việt Nam, theo Quyết định số 10/2007/QĐ-TTg ngày 23 tháng 01 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ, nền kinh tế chia thành hệ gồm 21 nhóm ngành, 642 hoạt động kinh tế cụ thể.
Thứ hai, nguyên tắc phân ngành xuất phát từ tính chất của phân công lao động xã hội, qua đó những hoạt động kinh tế khác nhau nhưng có quy trình, tính chất sản xuất tương đồng tập hợp lại trong một ngành lớn, đó cũng chính là cơ sở để phân chia nền kinh tế thành ba khu vực như kể trên.
Thứ ba, cơ cấu ngành kinh tế không chỉ thể hiện mối quan hệ về mặt lượng, mà còn thể hiện mối quan hệ về mặt chất giữa các ngành kinh tế với nhau; ở mặt lượng nó thể hiện ở tỷ trọng của mỗi ngành trong tổng thể nền kinh tế, còn ở khía cạnh chất lượng, nó thể hiện vị trí, tính chất và tầm ảnh hưởng, sự tác động qua lại giữa các ngành kinh tế với nhau.
1.1.3.Vai trò của cơ cấu kinh tế trong quá trình phát triển kinh tế
Cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân là nhân tố cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển kinh tế các nước. Một nền kinh tế chỉ có thể tăng trưởng và phát triển được khi nó có một cơ cấu kinh tế hợp lý, tiên tiến đáp ứng được những yêu cầu đặt ra của thời đại. Khó có thể mở rộng được thị trường, tăng cường tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới nếu chỉ dựa vào công nghiệp lạc hậu, kém tiên tiến hoặc gây ô nhiễm môi trường. Không có một nền kinh tế phát triển nào trên thế giới chỉ dựa vào nông nghiệp, công nghiệp hay dịch vụ. Cơ cấu kinh tế hợp lý cho phép khai thông, tạo động lực cho việc khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong nước và quốc tế.
Việc hình thành cơ cấu kinh tế được diễn ra theo hai quá trình tự phát và có kế hoạch. Ngày nay để thực hiện được mục tiêu tổng quát trong phát triển kinh tế, Chính phủ các nước chủ động xác định cơ cấu kinh tế trong chiến lược phát triển của mình; Giải quyết vấn đề cơ cấu kinh tế luôn là trọng tâm của việc hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế đất nước.
1.2. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
1.2.1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Nền kinh tế được cấu thành bởi các ngành, lĩnh vực khác nhau, trong mỗi thời kỳ, giai đoạn, mỗi ngành, lĩnh vực có vị trí, vai trò và đóng góp nhất định vào sự phát triển của nền kinh tế. Bên cạnh đó là sự xuất hiện của những ngành, lĩnh vực mới, điều này làm cho cơ cấu của nền kinh tế thay đổi; Như vậy nền kinh tế luôn thay đổi, vận động liên tục, nó cũng làm cho cơ cấu ngành trong nền kinh tế thay đổi, chuyển dịch từ trạng thái này, sang trạng thái khác.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình cải biến kinh tế xã hội từ tình trạng lạc hậu, mang nặng tính chất tự cấp tự túc từng bước vào chuyên môn hoá hợp lí, trang bị kĩ thuật, công nghệ hiện đại, trên cơ sở đó, tạo ra năng suất lao động cao, hiệu quả kinh tế cao và nhịp độ tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế nói chung.
Theo tác giả Nguyễn Thị Ngọc Phùng: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình thay đổi cơ cấu ngành từ trạng thái này, sang trạng thái khác ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp với môi trường và điều kiện phát triển.
Theo nghiên cứu của tác giả: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình phát triển của các ngành kinh tế dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các ngành và làm thay đổi mối quan hệ tương quan giữa chúng so với thời kỳ trước đó, qua đó cũng làm thay đổi mối quan hệ tương quan giữa các ngành kinh tế với nhau.
Như vậy, ta thấy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế không chỉ thể hiện sự thay đổi về số lượng các ngành, tỷ trọng của mỗi ngành mà nó còn thể hiện sự thay đổi về vị trí, tính chất của các ngành trong nền kinh tế. Trong mỗi giai đoạn khác nhau, mỗi một ngành lại có vị trí, tính chất khác nhau tùy thuộc vào đóng góp về tỷ trọng, cũng như tính chất của nó trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, việc chuyển dịch cơ cấu ngành phải dựa trên cơ sở một cơ cấu kinh tế hiện có và nội dung của chuyển dịch cơ cấu là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. Nếu cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch đúng hướng, hợp lý thì kết quả đem lại sẽ có lợi cho con người và ngược lại cơ cấu kinh tế chuyển dịch sai sẽ đưa tới kết quả xấu, gây tốn kém, trở ngại và làm trì trệ phát triển để lại hậu quả xấu cho xã hội.
Chuyển dịch cơ cấu ngành có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển nền kinh tế; Chuyển dịch cơ cấu ngành thể hiện sự phân bổ nguồn lực của quốc gia vào trong các hoạt động sản xuất nhất định; Sự chuyển dịch cơ cấu ngành thể hiện hiệu quả của việc phân bổ các nguồn lực; Trong nền kinh tế hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng phát triển thì việc lựa chọn chuyển dịch cơ cấu ngành thể hiện được các lợi thế tương đối và khả năng của một quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu, là cơ sở cho sự chủ động tham gia và thực hiện hội nhập phát triển. Qua việc phân tích cơ cấu ngành kinh tế, ta có thể thấy được trình độ phát triển của nền kinh tế mỗi quốc gia.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình tích lũy về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất của nền kinh tế; Chính vì vậy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo chiều hướng ngày một tiến bộ, hiện đại hơn. Lúc đầu khi nền kinh tế còn kém phát triển, nền kinh tế chủ yếu hoạt động trên các lĩnh vực nông nghiệp và thủ công nghiệp, chính vì vậy các ngành này đóng vai trò lớn, cơ cấu ngành kinh tế thiên về nông nghiệp; Theo thời gian, nền kinh tế phát triển hơn, theo đó xuất hiện các ngành mới có trình độ sản xuất cao hơn, các ngành công nghiệp và dịch vụ theo đó ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế, lúc này cơ cấu ngành chuyển dịch theo hướng thiên về công nghiệp và dịch vụ.
Có thể tóm tắt quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo quy luật chung của một quốc gia qua bốn giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: Nông nghiệp - Công nghiệp - Dịch vụ. Giai đoạn 2: Công nghiệp - Nông nghiệp - Dịch vụ. Giai đoạn 3: Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp. Giai đoạn 4: Dịch vụ - Công nghiệp - Nông nghiệp.
1.2.2. Các chỉ tiêu phán ảnh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
1.2.2.1. Cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội (GDP-Gross Domestic Product)
Tổng sản phẩm quốc nội là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ cuối cùng do kết quả hoạt động kinh tế trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia tạo nên trong một thời kỳ nhất định. Trong quá trình đánh giá chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu GDP giữa các ngành kinh tế là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất, phản ánh xu hướng vận động và mức độ thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ lệ phần trăm của các ngành nông nghiệp, công nghiệp – xây dựng, dịch vụ và sự vận động của nó là tiêu chí đầu tiên thường được dùng để đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Bàn về vấn đề này, tác giả Đặng Quốc Tuấn đã khẳng định: Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mối tương quan giữa các ngành được vận động theo xu hướng chung là GDP khu vực nông nghiệp ngày càng giảm dần, GDP các ngành phi nông nghiệp ngày càng tăng lên.
Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ thì khu vực dịch vụ đang trở thành khu vực có GDP chiếm tỷ trọng cao nhất, sau đó là khu vực công nghiệp – xây dựng và cuối cùng là khu vực nông nghiệp. Theo đánh giá của các nhà kinh tế, một trong những tiêu chí cơ bản để đánh giá cơ cấu ngành kinh tế tối ưu là nông nghiệp phải giảm dần về tỷ trọng; công nghiệp – xây dựng và dịch vụ phải tăng dần về tỷ trọng; Tuy nhiên, cơ cấu GDP trong các ngành nông nghiệp, công nghiệp – xây dựng và dịch vụ mới chỉ là những chỉ tiêu chung nên khi dựa vào các số liệu này chưa thể đưa ra một đánh giá sát thực. Để đánh giá một cách sâu sắc hơn quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa chúng ta cần phải phân tích cơ cấu các phân ngành trong từng ngành lớn.
1.2.2.2. Cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế
Lực lượng lao động hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế, bao gồm tất cả những người từ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người thất nghiệp trong thời gian quan sát. Lực lượng lao động theo quan niệm như vậy đồng nghĩa với dân số hoạt động kinh tế và nó phản ánh khả năng thực tế về cung ứng lao động của xã hội. Trong lực lượng lao động chỉ có bộ phận những người có việc làm mới tạo ra thu nhập trong xã hội.
Cơ cấu lao động phản ánh số lượng lao động hoạt động trong các ngành kinh tế, sự phân bổ nguồn lực lao động vào trong các ngành kinh tế của đất nước. Chỉ tiêu này có ý nghĩa quan trọng trong việc phản ánh trình độ phát triển của một quốc gia. Về bản chất, cơ cấu lao động phản ánh trình độ của lực lượng sản xuất trong các ngành kinh tế. Hiện nay, đặc trưng cơ bản của thị trường lao động ở các nước đang phát triển là đại bộ phận lao động còn đang hoạt động trong ngành nông nghiệp, lao động có chuyên môn, tay nghề còn hạn chế và tỷ trọng lao động hoạt động trong các ngành kinh tế hiện đại rất nhỏ. Bên cạnh đó là sự phân mảng lao động trong các ngành kinh tế, điều này có nghĩa là mỗi ngành kinh tế có sự vận động khác nhau, khả năng chuyển đổi việc làm giữa các ngành này gặp rất nhiều khó khăn ( ví dụ: những nông dân khi chuyển ra thành thị tìm kiếm việc làm gặp rất nhiều khó khăn, nếu có kiếm được việc làm thì cũng chỉ là những công việc lao
động chân tay đơn thuần không đòi hỏi nhiều trình độ và tay nghề chuyên môn). Theo các nhà kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động trong nền kinh tế phải theo xu hướng tỷ trọng lao động hoạt động trong các ngành kinh tế hiện đại phải tăng dần và lao động hoạt động trong các ngành kinh tế truyền thống giảm dần.
So với cơ cấu GDP, cơ cấu lao động sở dĩ được các nhà kinh tế coi trọng và đánh giá cao vì chỉ tiêu này không chỉ phản ánh xác thực hơn mức độ chuyển biến sang xã hội công nghiệp của một đất nước mà còn ít bị ảnh hưởng bởi các yếu tố ngoại lai hơn. Ở một số nước, lao động hoạt động trong các ngành phi nông nghiệp nhỏ nhưng tỷ trọng đóng góp của trong GDP lại rất lớn. Lý giải cho hiện tượng này, các nhà kinh tế đã chỉ ra tình trạng méo mó về giá cả, nhất là trong những trường hợp có sự chênh lệch giữa giá cả sản phẩm công nghiệp và dịch vụ so với giá cả sản phẩm nông nghiệp.
1.2.2.3. Cơ cấu vốn đầu tư
Để tạo ra những tài sản vật chất cụ thể, nhất thiết phải sử dụng vốn đầu tư thông qua các hoạt động đầu tư sản xuất; Nhờ có hoạt động sản xuất mới tạo ra được sản phẩm trong xã hội, và qua đó tạo ra được giá trị thặng dư, tạo ra nguồn của cải tích lũy. Một phần của cải tích lũy này lại được đem sử dụng để tái đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo thêm nhiều của cải cho xã hội; Trong chu kỳ của nền kinh tế như vậy, vốn đầu tư đã thể hiện vai trò là yếu tố quan trọng đầu tiên cần thiết cho công cuộc phát triển kinh tế. Muốn duy trì và phát triển nền kinh tế, vốn đầu tư phải được sử dụng và mở rộng liên tục.
Nguồn hình thành vốn đầu tư có thể từ đầu tư công của chính phủ, đầu tư từ tích lũy của tư nhân và nguồn đầu tư của nước ngoài; Các nguồn đầu tư này cũng đóng những vai trò khác nhau trong quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia. Đối với các nước đang phát triển, nguồn tích lũy trong tư nhân còn hạn chế thì nguồn vốn từ đầu tư công của nhà nước và nguồn vốn từ các tổ chức nước ngoài chiếm vai trò cực kỳ quan trọng.
Trên phạm vi một quốc gia, một cơ cấu nguồn vốn hợp lý là cơ cấu phản ánh khả năng huy động tối đa mọi nguồn lực xã hội cho phát triển, phản ánh khả