Chuyện cũ Hà Nội trong văn Tô Hoài - 2

Người ven thành, Quê nhà, Chuyện cũ Hà Nội...Ông viết kĩ, luôn luôn sửa, tỉa bớt chữ cho cô đọng, đảo cú pháp cho gần với cách nói thông thường, nhiều nhận xét hóm hỉnh, sắc sảo, giàu chất tạo hình và chất thơ[23, 175]

Trong Lời giới thiệu Tuyển tập Tô Hoài, GS Hà Minh Đức viết: Thế giới nhân vật của Tô Hoài vốn là những kiểu người bình dị gần gũi trong cuộc sống hàng ngày của những vùng quê. Họ quay tơ, dệt cửi, chạy chợ... để kiếm sống. Gặp buổi thuận thời làng quê vang lên đều đặn tiếng thoi dệt cửi đến canh khuya, phiên chợ đông vui kẻ mua người bán, hội làng nhộn nhịp trong những ngày xuân, trai gái hò hẹn lứa đôi...”[23, 113]

Những ý kiến của các tác giả trên đây là những đánh giá đúng và sâu về đề tài Hà Nội trong sáng tác của Tô Hoài. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu chuyên biệt nào viết riêng về Chuyện cũ Hà Nội trong văn Tô Hoài. Do vậy những ý kiến đánh giá này là cơ sở lí luận rất quý báu cho chúng tôi trong việc nghiên cứu tiếp về đề tài Hà Nội của Tô Hoài qua hai tập truyện Chuyện cũ Hà Nội.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Luận văn không nghiên cứu tất cả những tác phẩm viết về đề tài Hà Nội của Tô Hoài mà chỉ tập trung vào hai tập Chuyện cũ Hà Nội .

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn chỉ ra, làm rò những giá trị và đặc trưng trong nội dung hai tập truyện Chuyện cũ Hà Nội cùng với những đặc điểm về nghệ thuật, phong cách của Tô Hoài. Từ đó khẳng định vị trí và những đóng góp của nhà văn Tô Hoài đối với nền văn học dân tộc nói chung, với đề tài Hà Nội nói riêng.

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp:

- Phương pháp lịch sử

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.

- Phương pháp phân tích tổng hợp

- Phương pháp đối chiếu so sánh

Chuyện cũ Hà Nội trong văn Tô Hoài - 2

6. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Thư mục tham khảo, nội dung chính của luận văn được thể hiện trong 3 chương:

Chương 1: Bối cảnh xã hội - Đời sống văn học những năm 1941 - 1945 và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài

Chương 2: Giá trị và đặc trưng của Chuyện cũ Hà Nội

Chương 3: Nghệ thuật và phong cách của Tô Hoài

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1

BỐI CẢNH XÃ HỘI - ĐỜI SỐNG VĂN HỌC NHỮNG NĂM 1941 -1945 VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN TÔ HOÀI

1.1. Bối cảnh xã hội những năm 1941 – 1945

* Tình hình thế giới.

Từ nửa sau những năm ba mươi của thế kỉ XX, các thế lực phát xít tăng cường các hoạt động bành trướng và xâm lược, chạy đua vũ trang chuẩn bị chiến tranh để phân chia lại thế giới. Ngày 1/9/1939, Đức tấn công Ba Lan mở đầu cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ngày 3/9/1939, Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Lợi dụng tình thế chiến tranh chính phủ Đalađiê thi hành hàng loạt biện pháp đàn áp các lực lượng dân chủ trong nước và ở các nước thuộc địa, Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ, Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ngoài vòng pháp luật.

Đến tháng 7/1939, được cử làm toàn quyền Đông Dương, Catơru tăng cường chính sách vơ vét thuộc địa, đàn áp phong trào đấu tranh, với tuyên bố “ta đánh toàn diện và mau chóng vào các tổ chức cộng sản; trong cuộc đấu tranh này, phải tiêu diệt Cộng sản thì Đông Dương mới được yên ổn và trung thành với nước Pháp”. Lệnh thiết quân luật được ban bố. Để phục vụ chính quốc, chúng tăng cường vơ vét bóc lột Đông Dương, ra lệnh tổng động viên nhằm “cung cấp cho mẫu quốc tiềm lực tối đa của Đông Dương về quân đội, nhân lực, các sản phẩm và nguyên liệu”. Kết quả của chính sách đó là 8 vạn lính Việt Nam bị đưa sang Pháp.

Tháng 6/1940, Pháp đầu hàng Đức. Ở Đông Dương, được cử làm toàn quyền thay Catơru, Đờcu tiến hành cải cách bộ máy cai trị, phát xít hóa bộ máy thống trị đàn áp cách mạng Đông Dương.

Đến tháng 6/1941, phát xít Đức mở cuộc tấn công Liên Xô. Cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô bắt đầu. Tính chất cuộc chiến từ đây thay đổi về căn bản. Trên thế giới đã hình thành hai trận tuyến, một bên là phe Đồng minh và các lực lượng dân chủ do Liên Xô đứng đầu và một bên là khối phát xít gồm Đức, Italia, Nhật.

Bước sang năm 1945, Chiến tranh Thế giới thứ hai chuyển vào giai đoạn kết thúc. Trên chiến trường châu Âu, phát xít Đức đã bị quét sạch khỏi lãnh thổ Liên Xô. Nhiều nước Đông Âu được giải phóng. Thủ đô Béclin sắp thất thủ. Đồng thời quân Anh- Mĩ đổ bộ lên đất Pháp, mở mặt trận mới đánh Đức. Nước Pháp được giải phóng.

Còn ở Châu Á- Thái Bình Dương, phát xít Nhật cũng khốn đốn trước các đòn tấn công dồn dập của Anh - Mĩ ở trên bộ cũng như trên biển… Tháng 8/1945, Nhật đầu hàng quân Đồng minh vô điều kiện. Tình hình ấy đã tạo điều kiện cho nhân dân ta khởi nghĩa giành chính quyền.

* Tình hình Việt Nam

Sau khi chiến tranh bùng nổ, ngày 29/9/1939, Trung ương Đảng gửi thông cáo cho các cấp bộ Đảng, nêu một số phương hướng và biện pháp cần kíp trước mắt nhằm chuyển hướng các hoạt động của Đảng.

Ở Đông Dương, tháng 6/1940 Nhật gửi thư cho toàn quyền Đông Dương yêu cầu đóng cửa biên giới Việt - Trung. Tháng 8/1940, Nhật yêu cầu Pháp cho quân đội Nhật vào Đông Dương và thừa nhận cho Nhật có những đặc quyền ở Đông Dương. Nhật bắt Pháp đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác, vừa tìm cách lôi kéo một số phần tử cơ hội trong đám địa chủ và tư sản làm tay sai phục vụ cho mưu đồ xâm lược của chúng. Bọn này núp dưới hình thức đảng phái chính trị ( Đại Việt, Phục Quốc…) hoặc tôn giáo để hoạt động,

ra sức tuyên truyền lừa bịp về văn minh và sức mạnh của Nhật, về thuyết “Đại Đông Á”, ráo riết dọn đường cho Nhật hất cẳng Pháp.

Sau khi đầu hàng Nhật ở Lạng Sơn (9/1940), rồi mở cửa cho chúng vào Đông Dương, thực dân Pháp đã suy yếu rò rệt, Nhật tiếp tục lấn bước để biến Đông Dương thành thuộc địa và căn cứ chiến tranh của chúng. Các công ty của Nhật đầu tư vào Đông Dương ngày một nhiều và hoạt động trong nhiều ngành công nghiệp và thương mại. Cả Nhật và Pháp đều ra sức bóc lột nhân dân, bắt nhân dân ta phải bán thóc theo diện tích cày cấy, bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay, thầu dầu… Rò ràng từ khi đặt chân lên Đông Dương dù là trực tiếp hay gián tiếp qua tay Pháp phát xít Nhật đã bòn rút triệt để các nguyên liệu và thực phẩm của đất nước và nhân dân ta nhằm phục vụ cho chiến tranh ...

Mặc dù bị Nhật ức hiếp tước đoạt mọi bề, thực dân Pháp vẫn có những thủ đoạn gian xảo để thu được lợi cao nhất như tăng cường đầu cơ tích trữ, thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy, tăng thuế lên gấp ba lần, thu mua lúa gạo với giá rẻ mạt… Chính những thủ đoạn này đã gây ra nạn khan hiếm thực phẩm nghiêm trọng trên thị trường và là nguyên nhân trực tiếp làm cho hơn hai triệu đồng bào ta ở miền Bắc chết đói trong mấy tháng đầu năm 1945.

Dưới hai tầng áp bức bóc lột nặng nề của Nhật - Pháp, các tầng lớp nhân dân nói chung, nhất là nông dân, bị đẩy đến tình trạng cực khổ, điêu đứng. Cuộc sống của người nông dân thời đó thật sự khốn quẫn. Họ sống cầm hơi với hớp cháo cám nhạt và trần mình chịu rét lúc đêm đông. Bên cạnh đó, không chỉ nông dân, đời sống của các tầng lớp giai cấp khác trong xã hội cũng điêu đứng nhiều bề…

Nói tóm lại, trừ bọn đại địa chủ, tư sản mại bản, quan lại cường hào tham nhũng và bọn đầu cơ tích trữ, còn mọi tầng lớp nhân dân đều rên xiết

dưới hai tầng áp bức bóc lột của Nhật - Pháp. Vì vậy, nhân dân ta đều sôi sục căm thù, và sẵn sàng nổi dậy khi thời cơ tới. Cả nước Việt Nam như một đồng cỏ khô, chỉ một tàn lửa nhỏ rơi vào là sẽ bùng lên thiêu cháy bè lũ cướp nước và tay sai.

1.2. Đời sống văn học trong những năm 1941 - 1945

Đời sống văn học thời kì này có nhiều biến động gắn với sự biến đổi của ba trào lưu văn học đó là văn học cách mạng, văn học hiện thực phê phán và văn học lãng mạn.

Văn học vô sản rút vào bí mật nhưng vẫn phát triển mạnh mẽ. Thơ ca cách mạng trong tù và thơ ca cách mạng ngoài nhà tù phát triển, nói nhiều tới tương lai, một tương lai sáng sủa đang tiến gần. Thời kì này thơ tuyên truyền kết hợp với thơ trữ tình cách mạng càng thấm thía, sâu sắc hơn. Tố Hữu trưởng thành nhanh chóng với tập thơ Từ ấy. Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh cũng đang viết trong thời kì này. Bên cạnh thơ ca, hàng loạt bài chính luận của đồng chí Trường Chinh xuất hiện trên các báo chí của Ðảng vào thời kì này cũng có nhiều giá trị văn học. Có thể nói văn học cách mạng trong những năm tiền khởi nghĩa đã góp phần quan trọng vào cuộc vận động cách mạng của Ðảng, đập tan chế độ thuộc địa, giành thắng lợi trong những ngày Tháng Tám năm 1945 lịch sử.

Văn học hiện thực phê phán có sự phân hóa mạnh mẽ. Vũ Trọng Phụng qua đời; có nhà văn không viết tiểu thuyết nữa mà chuyển dần sang khảo cứu dịch thuật như Ngô Tất Tố...

Một thế hệ nhà văn hiện thực mới ra đời: Nam Cao, Mạnh Phú Tư, Nguyễn Ðình Lạp, Bùi Hiển, ... Các nhà văn hiện thực này vẫn tiếp tục miêu tả cuộc sống tăm tối của người nông dân như trong Chí Phèo, Lão Hạc của Nam Cao; Sống nhờ của Mạnh Phú Tư, Ngoại ô, Ngò hẻm của Nguyễn Đình

Lạp, Nằm vạ của Bùi Hiển... Cuộc sống bế tắc mòn mỏi của người trí thức tiểu tư sản cũng được các nhà văn hiện thực đề cập một cách sâu sắc như trong Sống mòn, Ðời thừa, Trăng sáng của Nam Cao. Như vậy có thể nói, các nhà văn hiện thực đã nêu lên những mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp thống trị với tầng lớp nhân dân lao động. Họ tập trung viết về quá trình của người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa. Để dẫn đến thảm họa này là do cái đói và cái chết.

Văn học lãng mạn rơi vào cái tôi bế tắc, cực đoan. Một số tác giả trong Tự lực văn đoàn đưa ra một chủ nghĩa “vô luân”. Nguyễn Tuân đi vào hoài cổ, xê dịch và cuộc sống trụy lạc.... Thơ Mới khủng hoảng nghiêm trọng với thơ say, thơ điên, thơ loạn...

1.3. Sự nghiệp sáng tác và vị trí đề tài Hà Nội trong sáng tác của nhà văn Tô Hoài

1.3.1. Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài.

Tô Hoài sinh ngày 27.9.1920 tại quê ngoại - làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông cũ ( nay là phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội). Quê nội ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai tỉnh Hà Tây. Ngay từ những ngày còn thơ ấu, Tô Hoài đã sống gắn bó với mảnh đất và con người ven đô. Vì thế cuộc sống và con người làng Nghĩa Đô đã khơi nguồn cảm hứng bất tận cho nhà văn. Tô Hoài đã từng tâm sự: “Đời sống xã hội quanh tôi, tư tưởng và hoàn cảnh của chính tôi đã vào cả trong sáng tác của tôi.”

Tên thật của Tô Hoài là Nguyễn Sen. Trong nghề viết, ông dùng rất nhiều bút danh khác nhau như: Mắt Biển, Mai Trang, Duy Phương, Hồng Hoa (dùng cho viết báo)... Trong các bút danh ấy, Tô Hoài là bút danh được ông dùng nhiều và rất quen thuộc với độc giả. Chính vì tình yêu đối với Hà Nội

mà nhà văn đã mượn tên con sông Tô Lịch và tên đất phủ Hoài Đức làm nên bút danh cho mình.

Tô Hoài xuất thân trong một gia đình làm nghề thủ công dệt lụa, và chỉ định học hết bậc tiểu học, sau đó vừa tự học vừa đi làm. Tô Hoài đã làm nhiều nghề để kiếm sống: thợ thủ công, dạy học tư, bán hàng, kế toán hiệu buôn... và tự học để trở thành nhà văn. Hoàn cảnh xuất thân và những trải nghiệm cuộc sống đã giúp cho Tô Hoài có một vốn kiến thức thực tế sâu sắc, giúp ích rất lớn cho việc sáng tác của nhà văn.

Năm 1938, trong thời kì Mặt trận dân chủ, Tô Hoài tham gia phong trào ái hữu thợ dệt, làm thư kí ban trị sự Hội ái hữu thợ dệt Hà Đông rồi tham gia phong trào thanh niên phản đế. Năm 1943, gia nhập tổ Văn hóa cứu quốc đầu tiên ở Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám Tô Hoài tham gia phong trào Nam tiến; rồi lên Việt Bắc làm báo Cứu quốc, chủ nhiệm Cứu quốc Việt Bắc, chủ bút Tạp chí cứu quốc. Từ 1951 về công tác ở Hội văn nghệ Việt Nam. Sau ngày hòa bình lập lại, trong Đại hội nhà văn lần thứ nhất năm 1957, ông được bầu làm Tổng thư kí của Hội. Từ 1958 đến 1980 ông tiếp tục tham gia ban chấp hành, rồi Phó Tổng thư kí Hội nhà văn Việt Nam. Từ 1966 đến 1996 là Chủ tịch Hội văn nghệ Hà Nội. Ngoài ra, Tô Hoài còn tham gia nhiều công tác xã hội khác.

Lớn lên trong hoàn cảnh đất nước bị đô hộ, dưới chế độ phong kiến thực dân, Tô Hoài được tận mắt chứng kiến nỗi khổ của người nông dân nơi thôn quê và dân nghèo thành thị. Cầm bút viết văn, ông đã bày tỏ thái độ cảm thông, chia sẻ với quê nghèo bằng một tấm lòng gắn bó thiết tha, sâu nặng. Tô Hoài đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ cả trước và sau Cách mạng tháng Tám.

Tô Hoài đến với nghề văn khá sớm. Từ trước Cách mạng tháng Tám, khi mới 17, 18 tuổi, ông đã có một số sáng tác thơ đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/08/2022