ký chứng chỉ hành nghề. DNNVV được lựa chọn thực hiện đồng thời 02 thủ tục (đăng ký thành lập doanh nghiệp và đăng ký khắc con dấu) tại một nơi duy nhất là Trung tâm phục vụ hành chính công tỉnh Hà Nam (Bộ phận đăng ký kinh doanh).
Về chính sách hỗ trợ thông tin, tư vấn. Các thông tin về kinh tế xã hội của tỉnh được cập nhật hàng tháng, hàng quý, 6 tháng và hàng năm; bản đồ tổng thể các đồ án quy hoạch đã được Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt; thông tin quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong và ngoài khu công nghiệp, cụm công nghiệp; bảng giá đất hàng năm trên địa bàn tỉnh. Ngoài ra còn công khai danh mục và thông tin các dự án kêu gọi đầu tư của tỉnh; thông tin về kế hoạch, chương trình, dự án, hoạt động hỗ trợ DNNVV trên địa bàn tỉnh; các chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư của tỉnh; các văn bản pháp luật của Trung ương và của tỉnh liên quan đến doanh nghiệp; các thông tin khác theo nhu cầu của doanh nghiệp phù hợp với quy định của pháp luật. Tất cả các thông tin trên được công bố trên cổng thông tin điện tử của Ủy ban nhân dân tỉnh, trang thông tin điện tử của các Sở, ban, ngành, Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố để các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh và các nhà đầu tư có nhu cầu nắm bắt thông tin phục vụ việc đầu tư tại tỉnh. Hàng năm có trên 60% doanh nghiệp được hỗ trợ thông tin và tư vấn doanh nghiệp; bình quân mỗi năm đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về khởi sự doanh nghiệp, quản trị doanh nghiệp cho khoảng
2.000 lượt người; 40% doanh nghiệp trở lên được trợ giúp pháp lý...
Ngoài ra DNNVV được hỗ trợ miễn phí tư vấn pháp luật tại các cơ quan hành chính trên địa bàn tỉnh như: Sở Kế hoạch và Đầu tư hỗ trợ tư vấn, hướng dẫn miễn phí trình tự, thủ tục hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp được chuyển đổi từ hộ kinh doanh. Sở Tài chính, Cục thuế tỉnh hỗ trợ, hướng dẫn miễn phí cho DNNVV được chuyển đổi từ hộ kinh doanh sử dụng phần mềm kế toán doanh nghiệp; hướng dẫn miễn phí về thủ tục hành chính thuế và chế độ kế toán trong thời hạn 03 năm kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu. Các cơ quan quản lý nhà nước theo chuyên ngành của tỉnh hỗ trợ tư vấn, hướng dẫn miễn phí trình tự, thủ tục hồ sơ đăng ký chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh đối với ngành nghề kinh doanh có điều kiện cho doanh nghiệp được chuyển đổi từ hộ kinh doanh. Chính vì
vậy đến nay nhiều hộ kinh doanh trong CCN đã được hướng dẫn chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp: Năm 2017 một số CCN trên địa bàn tỉnh vẫn còn 48 hộ sản xuất kinh doanh nhưng đến năm 2019 chỉ còn 5 hộ (CCN Nhật Tân: 03 hộ, CCN Hoàng Đông: 02 hộ) chưa thực hiện thành lập doanh nghiệp theo quy định do các hộ tự chia cắt diện tích quá nhỏ để cho thuê. Các trường hợp này đang được UBND tỉnh giao cho sở Công thương phối hợp với sở Kế hoạch – Đầu tư tiếp tục hướng dẫn để thực hiện chuyển đổi mô hình.
Không chỉ ban hành chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp, để các CCN hoạt động hiệu quả trên cơ sở các quy định chung của nhà nước và thực tiễn địa phương, tỉnh Hà Nam đã ban hành các văn bản để quản lý CCN trên địa bàn:
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Hình Thành Và Phát Triển Các Cụm Công Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Hà Nam
- Kết Quả Sản Xuất Kinh Doanh Của Các Ccn Trên Địa Bàn Tỉnh Hà Nam
- Tình Hình Giải Phóng Mặt Bằng Của Các Ccn Trên Địa Bàn
- Định Hướng Và Giải Pháp Hoàn Thiện Chính Sách Phát Triển Các Cụm Công Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Hà Nam Đến Năm 2025
- Một Số Định Hướng Chủ Yếu Hoàn Thiện Chính Sách Phát Triển Các Cụm Công Nghiệp Trên Địa Bàn Tỉnh Hà Nam Đến Năm 2025
- Chính sách phát triển cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Nam - 13
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
Chỉ thị số 10/CT-UBND ngày 11 tháng 11 năm 2014 về tăng cường công tác quản lý các cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Nam. Trong Chỉ thị nêu rõ những kết quả đạt được trong công tác phát triển CCN: Đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, hộ sản xuất đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh, đóng góp tăng giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, giải quyết việc làm, tăng thu nhập người lao động, góp phần giải quyết ô nhiễm môi trường trong các khu dân cư...., chỉ ra những tồn tại, hạn chế: Mô hình quản lý cụm công nghiệp tại các địa phương chưa thống nhất; chất lượng quy hoạch và thực hiện quy hoạch các cụm công nghiệp chưa tốt; quyết toán vốn đầu tư các cụm công nghiệp hỗ trợ từ vốn ngân sách còn chậm; một số doanh nghiệp, hộ sản xuất sau khi thuê đất chậm đầu tư, sử dụng đất đai lãng phí, không hiệu quả, cá biệt có trường hợp sử dụng sai mục đích; phần lớn các dự án có quy mô nhỏ, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh thấp; chưa khắc phục được tình trạng ô nhiễm môi trường. Xác định nhiệm vụ, giải pháp phải thực hiện trong thời gian tới nhằm phát huy kết quả đạt được, khắc phục tồn tại hạn chế để đẩy nhanh tiến độ xây dựng CCN và thu hút đầu tư vào CCN. Phân công rõ trách nhiệm từng cấp, từng ngành phối hợp thực hiện nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, chỉ thị chưa đề cập đến chế tài xử lý vi phạm của các cấp, các ngành, doanh nghiệp và tiến độ khắc phục tồn tại nêu trên.
Quyết định số 26/2018/QĐ-UBND của UBND tỉnh với nội dung Ban hành Quy chế phối hợp quản lý cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Nam vào ngày 10 tháng 8 năm 2018. Trong văn bản này đã nêu nguyên tắc và phương thức phối hợp quản lý CCN, trình tự, thủ tục thành lập, mở rộng CCN, lập thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng hạ tầng CCN, tiếp nhận, triển khai dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, quản lý dịch vụ công cộng tiện ích hỗ trợ doanh nghiệp hoạt động và công tác khen thưởng kỷ luật. Tuy nhiên, trong quy chế chưa nêu những đặc thù trong công tác quản lý các doanh nghiệp nước ngoài và các cam kết hội nhập quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết. Trách nhiệm một số cơ quan chưa rõ ràng, cụ thể, còn chung chung, không đề cập đến công tác khen thưởng, kỷ luật.
Nhằm phấn đấu thực hiện hoàn thành kế hoạch phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 và các năm tiếp theo, tỉnh Hà Nam đang tập trung đầu tư hoàn thiện xây dựng hạ tầng khung các khu, cụm công nghiệp thu hút các doanh nghiệp cả trong nước và nước ngoài, đẩy mạnh công tác xúc tiến thu hút đầu tư. Tỉnh đã đầu tư xây dựng các hạng mục công trình hạ tầng như đường giao thông, thoát nước, kè mương, điện chiếu sáng, lát hè, trồng cây xanh,…Ngoài ra, Tỉnh đặc biệt chú trọng xây dựng, ban hành cơ chế chính sách trợ giúp phát triển doanh nghiệp, cải thiện môi trường kinh doanh, chính sách về đất đai, chương trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực; xây dựng hạ tầng khung tại các CCN, thực hiện tốt 10 cam kết của tỉnh với các nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp.
Để nắm bắt tình hình và kịp thời tháo gỡ những khó khăn cho doanh nghiệp, hàng năm UBND tỉnh đều tổ chức gặp mặt với các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Qua các buổi gặp mặt, đối thoại, tỉnh đã kịp thời có những chính sách phù hợp đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp. Công tác đảm bảo an ninh trật tự và vệ sinh môi trường tại các CCN cũng được tỉnh Hà Nam đặc biệt quan tâm. UBND tỉnh giao cơ quan quản lý các CCN thường xuyên phối hợp với Công an tỉnh Hà Nam. Công an chủ động các phương án phòng ngừa, không để xảy ra các vụ việc phức tạp, đảm bảo tốt an ninh trật tự trong CCN. Đơn vị quản lý các CCN phối hợp với các cơ quan chức năng cung cấp và đáp ứng đầy đủ các nhu cầu của nhà
đầu tư, của doanh nghiệp về điện, nước, viễn thông, dịch vụ tài chính - ngân hàng; thường xuyên tổ chức hướng dẫn, tư vấn pháp luật cho các doanh nghiệp và người lao động, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài về các chế độ, chính sách pháp luật như thủ tục lao động nước ngoài, luật bảo hiểm xã hội, luật lao động….
Tuy nhiên, ngoài những CCN thuộc nhóm 1 được tỉnh đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thì các CCN thuộc nhóm 2, đặc biệt là nhóm 3 chưa thực sự được quan tâm. Theo đánh giá chung, các CCN trên địa bàn đã thu hút được các doanh nghiệp nhỏ trong khu dân cư, hộ gia đình ở các làng nghề vào mở rộng sản xuất, kinh doanh, góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường, thúc đẩy làng nghề phát triển. Mặc dù vậy, hiện trạng phát triển các CCN còn nhiều hạn chế khi có tới 13/15 CCN đang hoạt động chưa có trạm xử lý nước thải; cơ sở hạ tầng như đường giao thông, hệ thống thoát nước xuống cấp song chưa được cải tạo nâng cấp; nhiều doanh nghiệp trong cụm còn sử dụng đất không đúng mục đích, để lãng phí đất đai, chuyển nhượng, cho thuê không đúng quy định, đầu tư không đúng dự án đăng ký… (theo Báo số 189/BC-SCT ngày 05 tháng 3 năm 2018 về tình hình hoạt động các CCN trên địa bàn tỉnh Hà Nam)
2.3. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến chính sách phát triển các cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh hà nam
2.3.1. Các nhân tố thuộc về cơ chế chính sách của nhà nước Trung ương
Các văn bản pháp luật của nhà nước luôn tạo ra hành lang pháp lý để các cơ quan thực thi quản lý các vấn đề thuộc chức năng của mình. Để quản lý các CCN, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 105/2009/NĐ-CP ngày 19/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy chế quản lý CCN và Nghị định số 68/2017/NĐ-CP ngày 25/5/2017 về quản lý phát triển cụm công nghiệp. Bên cạnh đó, những vấn đề và lĩnh vực cụ thể trong quá trình thành lập, phát triển và quản lý CCN được quy định tại các văn bản pháp luật chuyên ngành khác như Luật Đầu tư; Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp; Luật Đất đai; Luật xây dựng và Luật bảo vệ môi trường. Như vậy, hệ thống các Luật, Nghị định và các văn bản hướng dẫn đã góp phần hoàn
thiện hệ thống khung pháp lý quan trọng, giúp cho cơ quan quản lý CCN của tỉnh có cơ sở pháp lý để quản lý CCN trên địa bàn. Các Luật và văn bản này cũng đã quy định chi tiết và rõ ràng đối với các vấn đề liên quan trong việc quản lý các CCN. Tuy nhiên việc vận hành các chính sách của nhà nước vào quản lý các CCN tại tỉnh Hà Nam lại có sự khác nhau. Thực tế cho thấy chính sách quy hoạch, thu hút đầu tư, chính sách lao động việc làm, chính sách về đất đai,… vẫn còn những hạn chế nhất định. Nguyên nhân của việc này là do các chính sách này luôn có độ trễ cao so với thực tế. Sự thành công của các chính sách phụ thuộc rất lớn vào năng lực thực thi, tuy nhiên năng lực thực thi các chính sách quản lý cấp vĩ mô và vi mô vẫn còn một số tồn tại, hạn chế.
Bên cạnh đó các CCN chủ yếu phát triển theo mô hình CCN đa ngành, chú ý nhiều đến việc thu hút các nhà đầu tư để đẩy nhanh việc lấp đầy diện tích đất cho thuê của CCN nhưng chưa thực sự quan tâm đến các vấn đề về môi trường, xã hội nảy sinh khi phát triển CCN và nâng cao hiệu quả kinh tế của các CCN qua việc hợp tác, liên kết, cụ thể là: giảm thiểu các tác động tiêu cực tới môi trường sống xung quanh KCN; sử dụng hiệu quả tài nguyên, tiết kiệm năng lượng; liên kết giữa các doanh nghiệp trong CCN và liên kết giữa các CCN với nhau để tạo nên cụm sản xuất quy mô lớn, nâng cao giá trị gia tăng còn yếu. Ngoài ra năng lực của các tổ chức tư vấn, xây dựng quy hoạch, cơ quan thẩm định còn hạn chế, thiếu tầm nhìn, thiếu kinh nghiệm do đó ảnh hưởng đến việc hoạch định, quy hoạch, ban hành các chính sách để phát triển CCN. Cụ thể: Hiện nay các địa phương nói chung, tỉnh Hà Nam nói riêng thực hiện việc quản lý các CCN theo Nghị định số 68/2017/NĐ-CP ngày 25/5/2017. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc đó là trong Nghị định quy định chủ đầu tư được huy động vốn để xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN, tuy nhiên việc huy động như thế nào thì chưa có hướng dẫn cụ thể nên khó khăn cho nhà đầu tư triển khai thực hiện dự án, nhất là đối với các dự án do Trung tâm phát triển CCN các huyện, thị xã, thành phố làm chủ đầu tư. Ngoài ra, chưa quy định rõ ràng việc bàn giao chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng CCN từ các đơn vị sự nghiệp công lập sang các doanh nghiệp kinh
doanh hạ tầng để đầu tư mở rộng CCN; một số CCN do chưa có chủ đầu tư hạ tầng hoặc chưa được lập, phê duyệt quy hoạch chi tiết dẫn đến triển khai việc xây dựng hạ tầng không thực hiện được. Bên cạnh đó, địa phương cũng gặp vướng mắc trong công tác phát triển CCN do chưa có thông tư chi tiết về mô hình quản lý CCN, nhất là tổ chức, hoạt động của Trung tâm phát triển CCN, Phòng kinh tế/kinh tế hạ tầng cấp huyện và đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Sở Công thương được giao đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN. Một khó khăn nữa là các bộ, ngành Trung ương cũng chưa có hướng dẫn cụ thể về quản lý thực hiện dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật theo hình thức đối tác công tư và ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với dự án hạ tầng và sản xuất kinh doanh trong CCN…
2.3.2. Các nhân tố thuộc về bộ máy tổ chức và cán bộ địa phương
Các chính sách mang tính đặc thù ở các tỉnh thường có tác động trực tiếp nhất tới việc phát triển CCN trên địa bàn tỉnh. Hà Nam căn cứ vào chính sách chung của nhà nước cùng với các chính sách riêng ban hành để quản lý các CCN. Quy hoạch phát triển các CCN tại Hà Nam phải phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Hà Nam đến năm 2025, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, quy hoạch Vùng đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và Vùng thủ đô Hà Nội. Trong quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hà Nam nêu rõ phương hướng phát triển các ngành, lĩnh vực: Phát triển mạnh công nghiệp và xây dựng theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp công nghệ cao, hiện đại. Trên cơ sở quy hoạch này, tỉnh Hà Nam đặt ra các chính sách ưu đãi đặc biệt về đất đai, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực… Xây dựng chính sách thu hút nhiều dự án phát triển CCN nhằm nâng cao mức sống cho người dân, góp phần phát triển kinh tế của vùng nông thôn nói riêng, của tỉnh Hà Nam nói chung.
Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội ở Hà Nam đưa ra định hướng phát triển KCN, CCN của tỉnh, tuy nhiên chưa nhấn mạnh tới nội dung phát triển bền vững mà còn mang tính chất dàn trải vì thế việc quy hoạch phát triển các CCN ở Hà Nam cũng còn dàn trải, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch nhiều lần khiến cho chất lượng
quy hoạch CCN của tỉnh còn hạn chế. Bên cạnh đó, chất lượng nguồn nhân lực làm công tác quản lý CCN có mặt còn kém; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, chính quyền địa phương thiếu chặt chẽ; tinh thần, trách nhiệm thực thi nhiệm vụ của một phận cán bộ còn chưa cao. Đây là vấn đề đòi hỏi phải giải quyết đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà nhu cầu đòi hỏi nâng cao năng lực thực thi của các cơ quan quản lý nhà nước là bức thiết.
2.3.3. Các nhân tố thuộc về lợi thế và trình độ phát triển của địa phương
Hà Nam là tỉnh cửa ngõ phía Nam của thủ đô Hà Nội, có hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, điện, nước, viễn thông,... khá tốt, đã và đang được đầu tư khá mạnh. Đồng thời, có nguồn nhân lực dồi dào với dân số gần 01 triệu người, trong đó 2/3 đang trong độ tuổi lao động,…tạo điều kiện thuận lợi để phát triển các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn. Những năm trở lại đây, tỉnh Hà Nam đã có những cải cách mạnh mẽ nhằm cải thiện môi trường đầu tư. Với phương châm tạo điều kiện thuận lợi nhất, tỉnh sẵn sàng giao đất sạch, cấp giấy chứng nhận đầu tư nhanh nhất. Doanh nghiệp đến đầu tư được coi là tài sản của tỉnh, vì vậy tỉnh luôn đồng hành cùng doanh nghiệp trong mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh. Sự kết hợp hài hòa giữa lợi thế tĩnh và lợi thế động, Hà Nam thực sự trở thành nơi đầu tư lý tưởng của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, địa hình tỉnh Hà Nam thuộc vùng chiêm trũng nên chi phí đầu tư san lấp mặt bằng, xây dựng hạ tầng các Khu, CCN thường cao hơn so với các địa phương khác. Bên cạnh đó, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, công nhân kỹ thuật chưa đáp ứng được yêu cầu, lao động chuyển từ ngành nông nghiệp sang ngành công nghiệp, dịch vụ vẫn quen với tác phong sản xuất tiểu nông, chưa có tác phong công nghiệp. Việc ban hành một số cơ chế, chính sách thu hút đầu tư vào CCN còn chậm so với đòi hỏi thực tế,…ảnh hưởng đến quá trình phát triển các khu công nghiệp, CCN trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
2.4. Đánh giá chung về thực trạng chính sách phát triển các cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh hà nam thời gian vừa qua
2.4.1. Những thành công và kết quả đạt được
Qua nghiên cứu chính sách phát triển cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Nam và các nội dung liên quan, cao học viên rút ra những thành công của tỉnh trong lĩnh vực này như sau:
Về chính sách quy hoạch phát triển các CCN:
Thời gian qua, tỉnh Hà Nam đã tiến hành thực hiện chính sách phát triển CCN khá toàn diện nhằm đẩy mạnh phát triển CN, TTCN trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là khu vực nông thôn. Việc đề ra chính sách phát triển CCN của tỉnh đã căn cứ trước hết là chính sách của quốc gia, các chủ trương, định hướng lớn, các quy định, quyết định của Chính phủ về quy hoạch, kế hoạch và các loại văn bản quy phạm pháp luật khác. Chính sách phát triển CCN còn căn cứ vào các quy hoạch ngành: quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt nam theo các vùng lãnh thổ đến năm 2020; các đề án về phát triển nguồn nhân lực, về đào tạo nghề, về phát triển công nghiệp nông thôn,... Vì vậy, nội dung chính sách đề ra đều nhất quán, phù hợp với các định hướng chung của quốc gia và toàn vùng; đồng thời có sự vận dụng sáng tạo phù hợp với tình hình cụ thể của địa phương. Việc lựa chọn địa điểm thành lập CCN có nhiều điều kiện thuận lợi, thu hút các doanh nghiệp vào thuê đất để sản xuất kinh doanh trong CCN và bước đầu thu hút đầu tư, đảm bảo đúng định hướng ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên đầu tư phát triển. Sự phát triển các CCN, cùng với đó là các nhà đầu tư có tiềm lực về vốn, công nghệ hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến, chất lượng sản phẩm, thương hiệu trên thị trường, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường của các doanh nghiệp,..... đã tăng lên rõ rệt qua các năm. Do đó quá trình sản xuất của các doanh nghiệp cũng thay đổi đáng kể không chỉ các sản phẩm truyền thống, mà hiệu ứng lan toả đã thúc đẩy các doanh nghiệp địa phương dần trở thành các vệ tinh không thể thiếu của các nhà đầu tư lớn trong các khu, CCN. Đây chính là tiền đề cho phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ tại địa phương. Các chính sách đã được ban hành đều được thực thi và mang lại kết quả góp phần phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Nam.