Tốc Độ Tăng Trưởng Xuất - Nhập Khẩu (%/năm) Của Các Nước Thành Viên Gms

giúp đỡ của ADB, Chương trình Hợp tác kinh tế Tiểu vùng Mêkông mở rộng, gọi tắt là Chương trình GMS, đã được khởi xướng và có sự tham gia của cả 5 nước thành viên và tỉnh Vân Nam – Trung Quốc. Mục đích của chương trình này là cải thiện cơ sở hạ tầng và mở rộng quy mô trao đổi thương mại và đầu tư giữa các nước trong Tiểu vùng. Ban đầu, cơ chế hoạt động chính của hợp tác GMS là Hội nghị các Bộ trưởng hàng năm. Cho đến Hội nghị cấp cao lần thứ nhất họp ở Phnôm Pênh cuối năm 2002, đã có 10 cuộc họp cấp Bộ trưởng được tiến hành với 8 lĩnh vực hợp tác trọng điểm là giao thông vận tải, viễn thông, năng lượng, du lịch, môi trường, phát triển nguồn nhân lực, thương mại và đầu tư, kiểm soát ma tuý. Với những hướng hợp tác trên, các chính phủ thành viên tin tưởng rằng việc thực hiện Chương trình GMS sẽ tạo nền tảng cho việc tăng cường sự kết nối và thúc đẩy các quan hệ kinh tế qua lại giữa các nước trong Tiểu vùng.

Những kết quả ghi nhận được từ thực tiễn phát triển thương mại qua biên giới cũng như thương mại giữa các nước trong khu vực, trong quan hệ đầu tư, hợp tác phát triển năng lượng điện, khai thác và sử dụng nguồn nước của sông Mêkông, phát triển du lịch đã và đang góp phần khẳng định thành công của Chương trình GMS mà ADB đưa ra và đóng góp quan trọng và tăng trưởng kinh tế và quan hệ hợp tác giữa các nước trong tiểu khu vực. Kết quả là, vào đầu tháng 12/2002, chính phủ 6 nước thuộc GMS đã tiến hành Hội nghị cấp cao đầu tiên tại Phnôm Pênh, Campuchia để kỷ niệm 10 năm thực hiện Chương trình GMS và khẳng định sự quan tâm của mình đối với sự tăng cường hợp tác tiểu vùng. Điều đáng ghi nhận tại Hội nghị này là chính phủ Trung Quốc đã tham gia với tư cách là một nước GMS chứ không chỉ riêng tỉnh Vân Nam như khi bắt đầu Chương trình GMS. Trên cơ sở nhận thức rõ rằng cơ sở hạ tầng giao thông, năng lượng… là cần thiết, nhưng chưa đủ cho sự phát triển thương mại và đầu tư trong vùng, cách nhà lãnh đạo cấp cao tham gia Hội nghị đã cùng nhau bàn bạc, tiến tới ký kết các hiệp định tạo thuận lợi hoá thương mại, hiệp định về cung cấp tài chính và thực hiện hành lang kinh tế Bắc – Nam, cùng nhau khẳng định những nguyên tắc chung trong hợp tác kinh tế của Tiểu vùng là bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, cùng chia sẻ khát vọng về sự thịnh vượng chung của khu vực và cùng nhau theo đuổi những mục đích chung.

Quan điểm ủng hộ liên kết kinh tế khu vực của chính phủ các nước đã tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ hai về hợp tác kinh tế GMS, được tổ chức tại Côn Minh – Trung Quốc vào tháng 7/2005. Bên cạnh việc xây dựng và thực hiện tầm nhìn của một Tiểu vùng thịnh vượng, hài hoà và thống nhất, tăng trưởng kinh tế nhanh, tiến bộ xã hội và phát triển môi trường bền vững, các chính phủ đã tái cam kết tiếp tục thực hiện các mục tiêu Thiên Niên Kỷ (MDGs), nhằm tiến tới một sự phát triển bền vững. Để thực hiện các cam kết đó, chính phủ các nước GMS chủ trương trong thời gian tới, trung tâm của sự hợp tác được tập trung vào nhiều lĩnh vực, ưu tiên là củng cố cơ sở hạ tầng phục vụ cho phát triển, cải thiện môi trường đầu tư và thương mại, tăng cường cơ sở hạ tầng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, huy động tài chính và đẩy mạnh quan hệ đối tác. Các nước nhận thức rất rõ tầm quan trọng của quan hệ với các đối tác – các khu vực tư nhân, các tổ chức quốc tế, xã hội cũng như các viện nghiên cứu, đặc biệt là ADB, trong việc huy động các nguồn lực cần thiết cho việc phát triển hợp tác Tiểu vùng.

Hợp tác Tiểu vùng Mêkông nhằm chia sẻ hài hoà những lợi ích chung vì mục đích phát triển của mỗi nước mà không gây tổn hại đến nhau. Trên cơ sở đó, hợp tác GMS vừa thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế giữa các thành viên trong khu vực, vừa tạo ra nền tảng để thu hút sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế đối với các nước trong khu vực. Chính vì vậy, tại kỳ họp thư 56, Uỷ ban kinh tế - xã hội châu Á – Thái Bình Dương của Liên hợp quốc (tháng 7/2000) tuyên bố thập kỷ đầu của Thế kỷ 21 là: “Thập kỷ phát triển Tiểu vùng Mêkông mở rộng” [52].

1.3 Nguyên tắc hợp tác và cơ chế hoạt động:


Cũng như các tổ chức hợp tác khác trên thế giới và khu vực, sự hình thành và phát triển của GMS phải dựa trên các nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc hợp tác của GMS bao gồm các nguyên tắc chung và nguyên tắc cụ thể. So với nhiều tổ chức khác thì nguyên tắc chung của GMS không có gì đặc biệt mà vẫn dựa trên các tiêu chí cơ bản là tự nguyện, cùng có lợi và tôn trọng chủ quyền quốc gia. Các nguyên tắc cụ thể phải thể hiện được mục tiêu của sự hợp tác, nội dung, chương trình hành động của quá trình hợp tác và các phương thức để thực hiện các mục tiêu đó. Đồng

thời là một tổ chức, do đó, GMS phải có một cơ chế hoạt động thiết thực để duy trì việc thực hiện các mục tiêu đã đề ra.

Tại Hội nghị Bộ trưởng GMS lần thứ ba tại Hà Nội vào tháng 4/1994, dựa vào các nguyên tắc chung là tự nguyện, cùng có lợi và tôn trọng chủ quyền quốc gia, các Bộ trưởng đã thông qua 6 nguyên tắc hợp tác cụ thể trong khuôn khổ GMS như sau:

(1) Hợp tác GMS phải tạo điều kiện duy trì tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống của nhân dân trong Tiểu vùng. Các chương trình và dự án GMS cần phản ánh sự cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển nguồn nhân lực, xoá đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường.

(2) Các dự án có thể thu hút một số quốc gia trong Tiểu vùng và không nhất thiết phải bao gồm cả 6 nước. Các thoả thuận song phương trong Tiểu vùng là bộ phận cấu thành của hợp tác GMS;

(3) Việc cải tạo hoặc khôi phục những cơ sở hiện có được ưu tiên cao hơn việc xây dựng những cơ sở mới;

(4) Khuyến khích tài trợ cho các dự án Tiểu vùng từ nguồn vốn Chính phủ và tư nhân;

(5) Các nước thành viên Tiểu vùng cần thường xuyên gặp gỡ, trao đổi để duy trì động lực thúc đẩy tiến trình hợp tác phát triển;

(6) Các dự án hợp tác sẽ không làm tổn hại lợi ích của bất kỳ quốc gia nào, bất kể lợi ích hiện có hoặc sẽ có trong tương lai.

Căn cứ vào các nguyên tắc hợp tác đã đề ra, GMS thống nhất về cơ chế hoạt động theo 5 hình thức tổ chức là Hội nghị cấp cao GMS, Hội nghị cấp Bộ trưởng, Diễn đàn ngành và Nhóm công tác, Uỷ ban điều phối quốc gia GMS và Ban Thư ký. Chức năng nhiệm vụ của các hình thức tổ chức cụ thể như sau:

- Hội nghị cấp cao GMS: là cấp hoạch định chính sách của GMS, thay mặt Chính phủ các nước thành viên quyết định các chủ trương, chính sách, thông qua sáng kiến hợp tác mới, cam kết các thoả thuận và kế hoạch hành động của Chương trình; thực hiện đối thoại với các nhà đầu tư quốc tế. Kể từ khi thành lập tới nay,

GMS đã tổ chức 2 Hội nghị cấp cao tại Phnôm Pênh (Campuchia) năm 2002 và Côn Minh (Trung Quốc) năm 2005;

- Hội nghị cấp Bộ trưởng: họp hàng năm;

- Diễn đàn ngành và Nhóm công tác: Hiện tại, trong khuôn khổ hợp tác GMS có 3 diễn đàn chính thuộc ngành là về Giao thông vận tải, Năng lượng và Bưu chính viễn thông. Cùng với diễn đàn ngành, GMS cũng đã hình thành 4 nhóm công tác là: Nhóm công tác về hợp tác thương mại và hoạt động đầu tư; Nhóm công tác về hợp tác phát triển nguồn nhân lực; Nhóm công tác về hợp tác phát triển du lịch và Nhóm công tác về quản lý môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Các diễn đàn ngành được tiến hành ở cấp người đứng đầu ngành (thường là bộ trưởng chuyên ngành) của các nước thành viên. Diễn đàn ngành và nhóm công tác có nhiệm vụ triển khai các quyết định của Hội nghị cấp cao; nghiên cứu, tư vấn và kiến nghị Chương trình hợp tác trong lĩnh vực của mình lên Hội nghị cấp cao;

- Uỷ ban điều phối quốc gia GMS: Mỗi thành viên thành lập Uỷ ban điều phối quốc gia về hợp tác GMS của riêng mình. Đây là tổ chức đầu mối của sự hợp tác nhằm gắn liền các chính phủ thành viên với toàn bộ GMS. Ngoài ra, Uỷ ban điều phối quốc gia GMS có chức năng trực tiếp tham mưu cho Chính phủ trong các hoạt động hợp tác của GMS;

- Ban thư ký: Hiện tại, ADB đang đóng vai trò là Ban thư ký của GMS. Chức năng chủ yếu của Ban Thư ký là điều phối chung các hoạt động của GMS. Trong cơ cấu tổ chức ADB, phòng GMS thuộc Vụ miền Đông của Ngân hàng này.

1.4 Những kết quả hoạt động chủ yếu:


Những năm qua, 6 nước thuộc GMS đã triển khai hàng trăm dự án phát triển nông, lâm, ngư nghiệp, kết cấu hạ tầng, giao thông năng lượng, thương mại, đầu tư, du lịch, phát triển nguồn nhân lực và bảo vệ môi trường.

Nhiều chương trình, cơ quan, tổ chức hợp tác phát triển khu vực này đã được thành lập và hoạt động có hiệu quả thời gian qua như Uỷ hội sông Mê Công (MRC), Chương trình Hợp tác Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS), Chương trình Hợp tác ASEAN phát triển lưu vực sông Mê Công, Chương trình Hợp tác phát triển liên

vùng nghèo dọc Hành lang Đông-Tây, Tam giác phát triển Campuchia-Lào-Việt Nam.

- Uỷ hội sông Mê Công (MRC) là tổ chức lưu vực sông quốc tế mang tính liên Chính phủ đầu tiên ở khu vực, được thành lập từ năm 1995 để hợp tác phát triển bền vững, sử dụng, bảo vệ và quản lý tài nguyên nước và các tài nguyên khác trong lưu vực.

- Chương trình Hợp tác Tiểu vùng Mê Công mở rộng hình thành năm 1992, theo sáng kiến của ADB, là chương trình hợp tác kinh tế hoàn chỉnh, hiện có 50 dự án trong quá trình xây dựng và triển khai, trong đó được chú trọng nhất là phát triển hạ tầng giao thông.

- Chương trình Hợp tác ASEAN phát triển lưu vực sông Mê Công (AMBDC) được thiết lập từ năm 1995 nhằm tăng cường liên kết kinh tế-thương mại giữa các nước ASEAN, đặc biệt là các nước lưu vực sông Mê Công, thông qua hợp tác phát triển cơ sở hạ tầng, thương mại, đầu tư, du lịch và nguồn nhân lực. Hiện nay, chương trình này đang triển khai 72 dự án với tổng vốn khoảng 4,1 tỷ USD, trong đó lớn nhất là dự án đường sắt xuyên Á Singapore-Côn Minh trị giá 2,5 tỷ USD, có đoạn qua Việt Nam.

- Chương trình Hợp tác phát triển liên vùng nghèo dọc hành lang Đông – Tây (EWEC) được thành lập theo sáng kiến của Việt Nam từ năm 1998 nhằm mục tiêu xoá đói giảm nghèo thu hẹp chênh lệch trình độ phát triển trong Tiểu vùng Mê Công. Trong 48 tỉnh thuộc phạm vi chương trình, Việt Nam có 18 tỉnh ở khu vực miền Trung. Hiện nay, chương trình đã tập hợp 26 dự án về thương mại, du lịch, phát triển nguồn nhân lực.

- Sáng kiến thành lập Tam giác phát triển Việt Nam, Lào và Campuchia được nêu ra từ năm 1999 và hiện được Chính phủ ba nước tích cực phối hợp triển khai.

Ngoài ra, ở những cấp độ và phạm vi khác nhau, còn có nhiều chương trình, diễn đàn hợp tác giữa các nước trong khu vực. Gần đây, Nhật Bản đã đề xuất sáng kiến hợp tác giữa Nhật Bản và các nước GMS, trong đó Nhật Bản cam kết hỗ trợ

1,5 tỷ USD cho các lĩnh vực xoá đói giảm nghèo và phát triển nguồn nhân lực để thu hẹp khoảng cách phát triển trong Tiểu vùng.

Đối với các nước thuộc lưu vực sông Mêkông tham gia vào tổ chức ASEAN, hợp tác kinh tế Tiểu vùng là động thái phối hợp nhằm thu hẹp chênh lệch phát triển của toàn nhóm với các thành viên ASEAN khác, tạo dựng khả năng để đấy nhanh tiến trình thực hiện cam kết xây dựng khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) và các cam kết tự do hoá thương mại khác, như ACFTA.

Hợp tác trong GMS đã tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, tạo thêm công ăn việc làm cho khu vực, đồng thời, giảm bớt những trở ngại về cơ sở hạ tầng đối với hàng hoá và người qua biên giới, tạo thuận lợi cho việc mở rộng buôn bán và đầu tư, góp phần vào sự phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên trong khu vực.

Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng xuất - nhập khẩu (%/năm) của các nước thành viên GMS

Nước


2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

Trung Quốc

Xuất khẩu

6,8

22,4

34,6

35,4

28,4

20,0

25,0

26,9

Nhập khẩu

8,1

21,3

39,8

35,8

17,6

20,0

20,0

29,8

Campuchia

Xuất khẩu

12,1

11,7

15,5

22,1

9,3

9,0

12,6

6,3

Nhập khẩu

8,0

10,7

10,4

24,7

17,1

13,0

17,0

19,4

Lào

Xuất khẩu

-3,3

-5,9

7,2

12,7

48,6

8,0

7,9

7,5

Nhập khẩu

-4,7

-12,4

1,9

56.4

23,8

12,0

10,8

10,1

Myanma

Xuất khẩu

43,0

-3,0

12,6

8,2

-

-

-

-

Nhập khẩu

13,4

-16,1

1,3

-10,6

-

-

-

-

Thái Lan

Xuất khẩu

-7,1

4,8

18,2

21,6

15,0

15,3

18,1

15,7

Nhập khẩu

-3,0

4,6

17,4

25,7

26,0

15,0

11,5

5,0

Việt Nam

Xuất khẩu

6,5

7,4

20,4

30,3

20,5

18,0

22,5

29,2

Nhập khẩu

6,0

19,5

37,4

26,0

16,0

15,0

41,4

28,8

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

Hoạt động logistics của Việt Nam trong hợp tác tiểu vùng MêKông mở rộng (GMS) - 3

Nguồn: ADB, Asian Development Outlook 2008

Năm 2007, ADB cho biết: khối lượng xuất khẩu nội GMS đã tăng gấp 10 lần kể từ năm 1992 nhờ nỗ lực của 6 nước trong vùng trong việc phối hợp cơ sở hạ tầng như đường xá và mạng lưới điện [27]. ADB cũng cho hay, tổng kim ngạch xuất khẩu của cả khu vực đã tăng gấp 6 lần kể từ năm 1992, khi các nước này bắt đầu hợp tác và tổng sản phẩm quốc nội của 6 nước trong vài năm qua đã tăng trung bình 6%/năm. Theo ADB, các ngành mới phát triển bùng nổ như du lịch, năng lượng và viễn thông đã hỗ trợ cho đà phát triển của khu vực.

Riêng đối với Việt Nam, lưu vực sông Mêkông có ý nghĩa chiến lược về kinh tế - xã hội, môi trường, sinh thái và an ninh, quốc phòng. Việt Nam nằm ở vị trí địa lý thuận lợi, là cửa ngõ của các tuyến giao thông quan trọng trong lưu vực sông Mêkông. Mục đích cơ bản của những chương trình hợp tác tiểu vùng Mêkông đều phù hợp với chủ trương chính sách về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Bởi vậy, Việt Nam ủng hộ và tham gia tích cực, là thành viên của hầu hết các chương trình dự án này. Việt Nam đang xúc tiến việc lập kế hoạch tổng thể tham gia tiến trình hợp tác phát triển lưu vực sông Mêkông nhằm khai thác cao nhất lợi thế của mình trong khu vực, thúc đẩy và nâng cao hiệu quả của các chương trình này.

2. Mối quan hệ GMS với ASEAN, các nước Đông Á và cộng đồng quốc tế:


Do vị trí địa lý, GMS là cầu nối giữa Trung Quốc và ASEAN nhằm hiện thực hoá quyết định thành lập Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN (ACFTA). GMS đã tạo được cơ sở hợp tác, đồng thời đã đạt được những thành quả nhất định. Tiểu vùng đã tiến hành những thử nghiệm hữu ích trên các phương diện: thể chế hoá, hiệp thương và cung cấp kinh nghiệm hợp tác có lợi cho ACFTA còn đang trong quá trình xây dựng mà nhiều lúc phải đi đường vòng. Xét theo một bình diện nào đó, hợp tác GMS là bộ khung thu nhỏ của khu mậu dịch tự do Trung Quốc

– ASEAN. Từ đó, có thể thấy hợp tác GMS có một tầm vóc hết sức to lớn.

Đối với cộng đồng quốc tế, hợp tác GMS cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Ngày càng nhiều tổ chức quốc tế và các nước dành sự quan tâm và ủng hộ cho hợp tác Tiểu vùng. Trong thời gian qua, hợp tác Tiểu vùng đã nhận được sự ủng hộ về tiền vốn, kỹ thuật và những phương diện khác của cộng đồng quốc tế. Nhật Bản,

các nước Châu Âu cũng cung cấp vốn và kỹ thuật cho một số hạng mục hợp tác ở Tiểu vùng. Các tổ chức quốc tế như: Chương trình phát triển Liên hợp quốc, Uỷ ban thường trực kinh tế xã hội Châu Á – Thái Bình Dương và nhiều nước trên thế giới đã khẳng định sẽ tích cực ủng hộ hợp tác Tiểu vùng.

Tháng 7/2000, tại kỳ họp thứ 56 của Uỷ ban kinh tế - xã hội Châu Á – Thái Bình Dương của Liên hợp quốc đã ra tuyên bố coi thập kỷ đầu của thế kỷ 21 là “Thập kỷ hợp tác phát triển Tiểu vùng Mêkông mở rộng”. Tại kỳ họp thượng đỉnh ASEAN+3, tháng 11/2002, các nhà lãnh đạo Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đã cam kết hỗ trợ GMS phát triển và coi đó là nội dung quan trọng trong tiến trình hợp tác ASEAN+3. Đáng kể nhất là chương trình đầu tư toàn diện (ALA) của Nhật Bản đối với việc nâng cao khả năng phát triển và hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế cho các thành viên ASEAN mới. Nhưng điều đó đang mở rộng tương lai khả quan cho quá trình hội nhập kinh tế của các nước GMS.‌

Hợp tác GMS sẽ kết thúc khi cộng đồng kinh tế Đông Á (mà trung tâm là ASEAN+3) hoặc khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc được thiết lập. Tuy nhiên, với điều kiện thuận lợi nhất thì cũng phải 15-20 năm nữa sự kiện này mới có thể xảy ra. Ngay cả khi sự kiện này không xảy ra thì hợp tác GMS cũng sẽ hết sứ mệnh lịch sử khi cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội của GMS đã được hiện đại hoá, GMS không còn là vùng nghèo khó, các nước GMS đã trở thành những nước công nghiệp mới.

II. TÌNH HÌNH HỢP TÁC CHUNG TRONG GMS


1. Về giao thông vận tải


Lĩnh vực giao thông vận tải là một trong những lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu. Cho đến nay, trong khuôn khổ hợp tác Tiểu vùng, các khía cạnh trong giao thông đường thuỷ, đường bộ, đường sắt, đường hàng không và cả vấn đề thể chế chung đều đã được xem xét. Sự phân tích sơ bộ về các dự án xây dựng đường, được xếp hạng ưu tiên từ Hội nghị lần thứ hai, cho thấy các dự án đều có hiệu quả và sức sống về mặt kinh tế. Sau đó, Hội nghị lần thứ ba tiếp tục xem xét lại các dự án và đề ra kế hoạch sớm hoàn chỉnh quá trình nghiên cứu khả thi, để chuyển sang giai đoạn

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 04/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí