tới các chủ thể bị tác động và tuyên truyền tới người dân trong quá trình thực hiện chính sách để tránh được một số những khó khăn mà các cấp các ngành gặp phải. Để nâng cao nhận thức đối với các hộ dân sinh sống và làm dịch vụ tại các KDLQG được quy hoạch hiện nay, các địa phương KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB cần tích cực giáo dục tuyên truyền người dân tham gia vào các hoạt động du lịch tại địa phương như tổ chức học tập bổ sung kiến thức về du lịch tại địa phương, thực hiện phong trào cổ động các hoạt động du lịch lành mạnh, đúng tính chất, thể hiện văn minh du lịch địa phương, khuyến khích các hộ dân trực tiếp tham gia đầu tư kinh doanh dịch vụ phục vụ khách du lịch với các quy mô lớn, nhỏ; Phát huy thế mạnh về các nghề thủ công truyền thống, giữ gìn và phát huy các bản sắc dân tộc trong phục vụ du lịch, nâng cao thu nhập và đời sống; Tăng cường tính cộng đồng trong quá trình phát triển, phát triển các ngành nghề truyền thống phù hợp với xu hướng phát triển của du lịch để tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ cho du lịch; Nâng cao ý thức người dân trong xây dựng bản, xã, phường, thôn văn minh giàu đẹp và lành mạnh, an toàn trật tự xã hội; Tuyên truyền cổ động ý thức bảo vệ TNDL và giữ gìn vệ sinh môi trường du lịch của địa phương; Giáo dục, nâng cao sự ủng hộ của người dân với các chủ trương, định hướng, kế hoạch phát triển du lịch của TW, chấp hành tốt các chính sách phát triển du lịch minh bạch và hợp lý của địa phương.
Đồng thời, để nâng cao văn hóa ứng xử, đón tiếp khách cho cộng đồng dân cư tại các điểm đến, ngành Du lịch các địa phương có KDLQG cần tổ chức tốt các lớp tập huấn với đối tượng tham gia chính là cán bộ thôn, xã và đại diện hộ gia đình tại khu vực KDLQG được quy hoạch. Người dân tham gia lớp học sẽ được giới thiệu tổng quan về du lịch, các tiềm năng, giá trị và thế mạnh của các điểm thăm quan trong KDLQG được quy hoạch, các kiến thức, nghiệp vụ hướng dẫn và văn hóa giao tiếp ứng xử với du khách, tìm hiểu nghiệp vụ thuyết minh, tâm lý và phong tục, tập quán của khách du lịch,… Sau đó, người dân được khuyến khích, động viên và hướng dẫn thực hành ngay tại điểm tham quan trong phạm vi KDLQG được quy hoạch đó.
Ngành Du lịch các địa phương có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB cũng nên mời các chuyên gia về du lịch, lãnh đạo ngành Du lịch địa phương, Vụ Lữ hành thuộc Tổng cục Du lịch, đại diện BVHTTDL, các giảng viên cơ sở đào tạo chuyên ngành để giảng dạy các lớp nâng cao kiến thức cộng đồng về du lịch địa phương.
- Nâng cao hiệu quả phối kết hợp giữa các ngành, các cấp có liên quan đến du lịch trong việc thực hiện chính sách.
Hiện nay, việc phối kết hợp giữa các ngành, các cấp trong thực thi chính sách phát triển KDLQG chưa cao, cụ thể: Hợp tác giữa các cơ quan quản lý còn khá yếu, nên việc thực thi chính sách gặp nhiều khó khăn, nhất là các cơ quan liên quan đến tổ chức tuyên truyền chính sách; các cơ quan tuyên truyền chưa chú trọng đến phổ biến nội dung chính sách, nên nhiều chủ trương, chính sách phát triển du lịch văn hóa của tỉnh chưa đi vào đời sống của người dân địa phương. Do đó, để việc phối kết hợp giữa các ngành, các cấp trong lĩnh vực liên quan đến du lịch hiệu quả, ngành Du lịch các tỉnh vùng ĐBSH&DHĐB cần phải:
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự quản lý điều hành của chính quyền, sự phối hợp giữa các ban ngành, đoàn thể nhân dân
Tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức của các cấp uỷ, chính quyền và người dân nhằm tạo sự thống nhất cao về nhận thức và hành động giữa các cấp, các ngành, địa phương trong sự nghiệp phát triển du lịch. Trên cơ sở đó, các cấp ủy đảng, chính quyền thường xuyên quan tâm, tập trung cao cho việc lãnh đạo, chỉ đạo phát triển du lịch.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả chỉ đạo, QLNN, tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch được phê duyệt; tăng cường đầu tư trong việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa, các di sản văn hóa phi vật thể, các cảnh quan thiên nhiên; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số trong phạm vi KDLQG được quy hoạch thuộc Vùng.
Có thể bạn quan tâm!
- Giải Pháp Và Kiến Nghị Hoàn Thiện Chính Sách Phát Triển Các Khu Du Lịch Quốc Gia
- Dự Kiến Tổng Vốn Đầu Tư Phát Triển Các Kdlqg Vùng Đbsh&dhđb Giai Đoạn Đến Năm 2030
- Hoàn Thiện Chính Sách Đầu Tư Cơ Sở Hạ Tầng Và Cơ Sở Vật Chất Kĩ Thuật Du Lịch
- Công Văn Số 4929/bgdđt- Gdđh Áp Dụng Cơ Chế Đặc Thù Đào Tạo Các Ngành Về Du Lịch, Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo Ban Hành Ngày 20 Tháng 10 Năm 2017
- Tên Doanh Nghiệp:..............................................................................................
- Chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia thuộc vùng du lịch Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc Việt Nam - 23
Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.
Tăng cường phối hợp của Mặt trận Tổ quốc với các ban, ngành, đoàn thể trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển du lịch: Tuyên truyền nâng cao nhận thức về trách nhiệm cộng đồng dân cư với việc ứng xử văn hoá, thân thiện, chuyên nghiệp trong hoạt các động du lịch, giữ gìn cảnh quan thiên nhiên, bảo vệ môi trường và các di sản văn hóa; nâng cao nhận thức về vai trò của du lịch để thấy được đó là một ngành kinh tế mang lại nhiều lợi ích cả về vật chất và tinh thần; góp phần tăng thu nhập, giúp xoá đói giảm nghèo và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện Nghị quyết về phát triển du lịch tại các KDLQG được quy hoạch thuộc Vùng.
Liên kết phát triển giữa các địa phương trong và ngoài tỉnh: Liên kết tổ chức các sự kiện nhằm thu hút khách du lịch về địa phương như tổ chức những ngày hội văn hóa, những giải thể thao lớn, tổ chức hội thảo, triển lãm về xây dựng phát triển sản phẩm mang tính thương hiệu của địa phương. Liên kết các tour, tuyến du lịch
trong và ngoài địa phương nhằm khai thác có hiệu quả sản phẩm và những lợi thế của các địa phương.
Các địa phương trong tỉnh chủ động kết nối trong việc lập quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch cũng như tổ chức các hoạt động kinh doanh du lịch mang tính liên kết nhằm tạo hiệu quả cao.
4.3.2.3. Hoàn thiện kiểm tra, thanh tra việc chấp hành chính sách
Qua tham vấn chuyên gia là những người quản lý trong BQL các KDLQG được quy hoạch của địa phương, NCS cho rằng để giúp cho chính sách phát triển các KDLQG được quy hoạch được tiến hành thuận lợi, các địa phương có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB cần xem xét sự hợp lý của mục tiêu đề ra trong từng giai đoạn, sự phù hợp của những chính sách bộ phận để có những điều chỉnh cần thiết về các mục tiêu, phương pháp sao cho việc thực hiện chính sách phát triển KDLQG được hoàn thiện và hiệu quả cao nhất.
Thanh tra Sở Du lịch hoặc Sở VHTTDL tại các địa phương có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB cần phối kết hợp với thanh tra Bộ định kỳ hội thảo chuyên đề về các hoạt động thanh tra, nhằm nắm bắt thông tin, giải quyết những hạn chế thông tin, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động du lịch tại các KDLQG được quy hoạch. Từ đó, tạo sự thống nhất về nhận thức cho các ngành, các cấp liên quan về quá trình thực hiện chính sách phát triển du lịch của địa phương mình, nâng cao trình độ thanh tra và đẩy nhanh tiến độ giải quyết các công việc thuộc phạm vi quản lý của ngành Du lịch.
Thanh tra, kiểm tra chính sách phát triển KDLQG được quy hoạch cần được thực hiện định kỳ và đột xuất, tránh tình trạng cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch có hành vi đối phó hay móc nối với cán bộ kiểm tra. Từ đó đảm bảo các thông tin nhận được trung thực và chính xác, giúp cho các cơ quan quản lý có được đủ thông tin thẩm định quá trình triển khai thực hiện chính sách. Trên cơ sở đó, có những biện pháp điều chỉnh kịp thời và cần thiết, để duy trì kỷ cương, đảm bảo ý thức tuân thủ các quy định chung trong quá trình thực thi chính sách phát triển các KDLQG được quy hoạch thuộc vùng ĐBSH&DHĐB hiện nay.
Ngoài thanh tra, kiểm tra phải đảm bảo đúng Luật Thanh tra, chính quyền địa phương cần phải rà soát lại các văn bản hiện hành, loại bỏ những quy định không phù hợp, nhằm khắc phục những sai sót trong quá trình thực hiện chính sách phát triển KDLQG được quy hoạch. Thanh kiểm tra cần kết hợp với các ngành công an, quản lý thị trường... kiểm soát chất lượng, chủng loại, giá cả dịch vụ du lịch và các
dịch vụ khác, đảm bảo lợi ích cho du khách và uy tín của các DNDL kinh doanh chân chính, hợp pháp với hiệu quả cao nhất.
4.3.3. Nhóm giải pháp đặc thù về chính sách để phát triển du lịch tại các khu du lịch quốc gia
Hiện nay, các chính sách phát triển KDLQG còn chưa có tính đặc thù riêng cho KDLQG mà vẫn là chính sách chung phát triển du lịch. Vì thế, cần xác định các chính sách riêng, mang tính đặc thù để phát triển du lịch tại các KDLQG. Cụ thể là:
- Đầu tư CSHT du lịch, giao thông trọng yếu trong phạm vi KDLQG, tăng khả năng tiếp cận điểm hấp dẫn du lịch của điểm đến, tăng mực độ tiện lợi cho du khách để tạo điều kiện khai thác và phát triển KDLQG hiệu quả hơn.
- Thu hút các nhà đầu tư chiến lược có tầm cỡ, đủ khả năng xây dựng, kiến tạo và triển khai các dự án phát triển du lịch mang tính đồng bộ và chất lượng trong nội bộ KDLQG, đảm bảo tính khả thi và hiện thực của dự án, giảm thời gian triển khai dự án do nguồn vốn được đảm bảo đầy đủ và sẵn sàng, tăng thời gian khai thác và vận hành bằng cách nhanh chóng đưa các dự án đầu tư vào thực tế khai thác, đáp ứng hiệu quả và kịp thời nhu cầu của khách du lịch khi đến du lịch tại các KDLQG.
- Xây dựng các đề án phát triển du lịch chuyên đề. Mỗi vùng miền ở Việt Nam đều có những đặc điểm riêng về các điều kiện tự nhiên, văn hóa xã hội và có những đặc trưng riêng về tài nguyên du lịch. Do vậy, sự hình thành và phát triển đề án du lịch chuyên đề ở mỗi KDLQG cũng cần có sự khác biệt, tạo ra nét đặc thù riêng theo các chuyên đề khác nhau: Du lịch tham quan thắng cảnh (Hạ Long, Tràng An, Tam Đảo, Cát Bà,…; Du lịch tâm linh (Tam Chúc); Du lịch lễ hội (Côn Sơn – Kiếp Bạc, Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam,…); Du lịch thưởng thức văn hóa văn nghệ dân gian (Rối nước, Ca Trù, Quan họ, Hát Xoan, Cải Lương…).
- Đẩy nhanh ứng dụng công nghệ số, hạ tầng viễn thông, mạng 5G trong phát triển du lịch tại các KDLQG. Phát triển du lịch thông minh là xu hướng tất yếu trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khi những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại được ứng dụng mạnh mẽ vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có du lịch. Tại Việt Nam, ứng dụng công nghệ hiện đại với ngành Du lịch và phát triển du lịch thông minh là chủ trương lớn của Đảng và Chính phủ, hiện đang được triển khai rộng khắp trong toàn ngành.
Chính phủ, Bộ VHTTDL cần có cơ chế, chính sách đặc thù và ban hành những văn bản cụ thể, quy định, hướng dẫn chi tiết về phát triển du lịch thông minh để định hướng cho ngành Du lịch và các KDLQG trong việc triển khai thực hiện. Cơ quan
quản lý du lịch các KDLQG cần xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về phát triển du lịch thông minh, có lộ trình và bước đi phù hợp. Căn cứ vào điều kiện kinh tế – xã hội, CSVCKT, kết cấu hạ tầng, trình độ công nghệ, nguồn nhân lực và tiềm năng phát triển du lịch để đẩy nhanh ứng dụng công nghệ số, hạ tầng viễn thông, mạng 5G trong phát triển du lịch tại các KDLQG.
Chú trọng phát triển khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin – truyền thông theo hướng ứng dụng cho ngành du lịch, tạo nền tảng công nghệ cho du lịch thông minh tại các KDLQG. Cần xác định và ưu tiên đầu tư cho các hạng mục công nghệ quan trọng hỗ trợ phát triển du lịch thông minh, bao gồm: xây dựng cơ sở dữ liệu ngành; đầu tư phát triển hạ tầng công nghệ; đầu tư sản xuất các phần mềm, hệ thống, chương trình, ứng dụng, tiện ích thông minh cho ngành du lịch; nghiên cứu ứng dụng các công nghệ tiên tiến sản xuất các sản phẩm và dịch vụ du lịch thông minh; nghiên cứu ứng dụng các công nghệ tiên tiến cho công tác quản lý và phát triển điểm đến là các KDLQG; ứng dụng công nghệ cho công tác thống kê du lịch; ứng dụng công nghệ cho công tác bảo tồn, phục chế các giá trị di sản, di tích phục vụ phát triển du lịch tại các KDLQG.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về phát triển du lịch thông minh tại các KDLQG cho các thành phần, đối tượng liên quan. Nâng cao nhận thức của người dân tại các KDLQG về du lịch thông minh, về các hoạt động du lịch trực tuyến, những ưu điểm và những tồn tại, bất cập của nó để khách du lịch và người dân hiểu, có những hoạt động tích cực, “thông minh”, tránh bị lợi dụng, lừa đảo. Khuyến khích các doanh nghiệp du lịch đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ trong kinh doanh, tiếp cận du lịch thông minh. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong hoạt động quản lý nhà nước về du lịch, nâng cao hiệu quả quản lý, từng bước điện đại hóa ngành du lịch.
- Khuyến khích ứng dụng công nghệ sạch và năng lượng xanh, kiểm soát chặt các chuẩn mực về môi trường rác thải tại các KDLQG. KDLQG là những điểm du lịch có lợi thế đặc biệt về nguồn TNDL cấp quốc gia, có giá trị rất lớn trong khai thác và phát triển du lịch, vì thế cần ưu tiên các chính sách bảo vệ môi trường, trong đó tập trung vào các nội dung như chú trọng ứng dụng công nghệ sạch và năng lượng xanh, thân thiện môi trường, đảm bảo duy trì môi trường, hệ sinh thái, động thực vật mang tính nguyên bản tại các KDLQG, đảm bảo khai thác mang tính hiệu quả và bền vững. Đồng thời kiểm soát chặt chẽ các chuẩn mực về khí thải, rác thải, hạn chế tối đa các tác động tiêu cực của nó tới phát triển du lịch tại các khu vực này.
Bên cạnh đó, để đảm bảo tạo ra nhiều điều kiện ưu tiên hơn cho phát triển du lịch tại các KDLQG cần nghiên cứu, áp dụng các chính sách sau:
- Tăng thời gian khai thác và sử dụng đất thương mại dịch vụ (từ 50 năm lên 70 năm). Theo quy định tại khoản 3 Điều 126 Luật Đất đai 2013, đất thương mại dịch vụ được các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức sử dụng do được Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc được phê duyệt dự án đầu tư thì thời hạn sử dụng đất không quá 50 năm. Tuy nhiên các dự án đầu tư thương mại dịch vụ lớn và quá trình thu hồi vốn chậm hoặc các dự án đầu tư thương mại dịch vụ tại các khu vực mà có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn cần thời hạn đầu tư dài hơn thì thời hạn sử dụng đất là không quá 70 năm.
Đầu tư phát triển KDLQG bao gồm nhiều dự án đầu tư thương mại khác nhau, có thể bao gồm đầu tư cơ sở lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí,… là các dự án đầu tư có vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm, tốc độ quay vòng vốn khá lâu. Chưa kể, phát triển KDLQG cần các công trình thương mại dịch vụ với quy mô và tầm cỡ đủ lớn, đảm bảo đáp ứng được nhu cầu của KDL ở tầm cỡ quốc gia, vì thế, càng cần nguồn vốn đầu tư lớn, đồng bộ và nhanh chóng. Tuy nhiên, do thời gian thu hồi vốn chậm nên nếu bị giới hạn thời gian thuê và sử dụng đất thương mại dịch vụ như trong Luật Đất đai 2013 sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến các dự án đầu tư, đặc biệt là tại những địa phương có KDLQG nhưng điều kiện kinh tế chưa thực sự phát triển, như KDLQG Ba Vì – Suối Hai, KDLQG Tam Đảo, …Vì thế các chính sách gia hạn thời gian thuê đất từ 50 năm lên 70 năm là rất cần thiết.
Ngoài ra, việc bổ sung hướng dẫn ưu tiên cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản trên đất lần 2 (sau 50 hoặc 70 năm) cho các nhà đầu tư hiện hữu, tạo ra khả năng thu hồi vốn và mang lại lợi nhuận cho các nhà kinh doanh cũng rất cần thiết. Các hướng dẫn cần rõ ràng, cụ thể về nguyên tắc, thủ tục, quyền và nghĩa vụ đối với bên thuê đất để tạo điều kiện thông thoáng hơn cho các nhà đầu tư hiện tại đã đổ vốn kinh doanh, góp phần phát triển du lịch tại các KDLQG thuộc Vùng.
4.4. Một số kiến nghị
4.4.1. Kiến nghị với các cơ quan trung ương
- Kiến nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhanh chóng và kịp thời công bố công khai và rộng rãi các dự án phát triển các KDLQG vào danh mục các dự án ưu tiên để kêu gọi vốn đầu tư trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho các KDLQG có cơ hội thu hút nhiều hơn nữa các nguồn vốn đầu tư lớn, nâng cấp đồng bộ CSHT và CSVCKT du lịch, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
- Kiến nghị Bộ Tài chính cân nhắc, điều chỉnh và phê duyệt tăng mức hỗ trợ đầu tư xây dựng hệ thống CSHT hàng năm tại các KDLQG hiện nay, nâng mức ngân sách cấp cho các địa phương có đủ nguồn lực thực hiện các mục tiêu, chính sách phát triển các hoạt động du lịch nói chung và phát triển KDLQG nói riêng của địa phương mình trong giai đoạn 2025 – 2030 hoặc xa hơn.
4.4.2. Kiến nghị với các cơ quan địa phương
- Đề nghị Sở Giao thông Vận tải các địa phương có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB lập kế hoạch trình UBND cấp tỉnh mình và Bộ Giao thông Vận tải về việc nâng cấp các tuyến đường bộ liên tỉnh, nối các điểm du lịch trong và ngoài phạm vi địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển dịch vụ vận chuyển du lịch đến các KDLQG đã được quy hoạch và các hoạt động kinh tế xã hội khác của địa phương.
- Đề nghị Sở Kế hoạch và Đầu tư tại các địa phương có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB lập kế hoạch trình UBND cấp tỉnh và Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc đầu tư xây dựng CSHT, các công trình & khu vui chơi giải trí công cộng cho các địa phương này và vùng phụ cận, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch và nâng cao đời sống tinh thần của người dân tại các địa phương có KDLQG đã được quy hoạch.
- Đề nghị Sở Công Thương tại các địa phương có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB lập kế hoạch trình UBND cấp tỉnh và Bộ Công Thương về việc mở rộng và phát triển các trung tâm thương mại, nâng cấp các chợ lớn, chợ trung tâm của các địa phương tạo điều kiện thuận lợi cho việc đa dạng hóa các loại hình dịch vụ phục vụ khách du lịch trong nước và quốc tế.
- Đề nghị Sở Thông tin và Truyền thông tại các địa phương có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB lập kế hoạch trình UBND cấp tỉnh và Bộ Thông tin và Truyền thông về việc tăng cường hoạt động truyền thông xúc tiến, quảng bá các hình ảnh SPDL đặc trưng của địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao sự hiểu biết của người dân và nâng cao sự tiếp cận đầy đủ thông tin của du khách về SPDL tại các KDLQG đã được quy hoạch của địa phương.
- Đề nghị Sở Giáo dục và Đào tạo tại các địa phương có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB lập kế hoạch trình UBND cấp tỉnh và Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội về việc xây dựng và phát triển các lớp đào tạo ngắn hạn về năng lực quản lý và tác nghiệp dịch vụ du lịch tại địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao trình độ NNLlao động du lịch và quản lý du lịch.
- Đề nghị Sở Tài nguyên và Môi trường tại các địa phương có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB lập kế hoạch trình UBND cấp tỉnh và Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc khoanh vùng bảo vệ tài nguyên và môi trường du lịch tự nhiên tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển loại hình du lịch văn hóa, sinh thái và du lịch bền vững tại các KDLQG đã được quy hoạch.