Bảng 2.11: Nguồn huy động vốn phân chia theo đối tượng của VCB giai đoạn 2005-2008
Năm 2005 | Năm 2006 | Năm 2007 | Năm 2008 | |||||||||
VNĐ (Tỷ) | USD (Triệu) | QUY (Tỷ VNĐ) | VNĐ (Tỷ) | USD (Triệu) | QUY (Tỷ VNĐ) | VNĐ (Tỷ) | USD (Triệu) | QUY (Tỷ VNĐ) | VNĐ (Tỷ) | USD (Triệu) | QUY (Tỷ VNĐ) | |
Dân cư và TCKT | 50072.55 | 4321.73 | 119220.37 | 59196.6 | 4343.23 | 128688.46 | 81161.46 | 5279.63 | 165635.64 | 96214.61 | 5332.64 | 181537 |
LNH | 7292.67 | 629.42 | 17363.51 | 17682.12 | 1297.33 | 38439.412 | 14098.47 | 917.11 | 28772.38 | 20337.79 | 1127.21 | 38373. |
Có thể bạn quan tâm!
- Chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương trong thời kỳ suy thoái kinh tế - 1
- Chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương trong thời kỳ suy thoái kinh tế - 2
- Đặc Điểm Của Chính Sách Huy Động Vốn Trong Thời Kỳ Suy Thoái Kinh Tế
- Tác Động Của Cuộc Khủng Hoảng Tài Chính Tới Ngành Tài Chính Ngân Hàng Việt Nam
- Chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương trong thời kỳ suy thoái kinh tế - 6
- Chính sách huy động vốn của ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương trong thời kỳ suy thoái kinh tế - 7
Xem toàn bộ 65 trang tài liệu này.
(Nguồn: báo cáo thống kê phòng vốn NHTMCPNT)
56
Từ bảng số liệu 2.11 ta xem xét tỷ trọng các nguồn vốn, nhận xét thấy vốn huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế và từ thị trường liên ngân hàng đều tăng giảm thất thường. Cụ thể: vốn huy động từ dân cư và tổ chức kinh tế giảm 10,2% năm 2006, tăng 8,2% vào năm 2007 và lại giảm 2,7% năm 2008; vốn từ thị trường liên ngân hàng lại tăng 10,3% vào năm 2006, giảm 8,2% năm 2007 và tăng 3,6% năm 2008. Nguồn vốn từ dân cư và tổ chức kinh tế vẫn luôn là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất (luôn trên 70%) trong tổng nguồn vốn huy động của NHTMCPNT, mục tiêu này được ngân hàng đặt lên hàng đầu và được duy trì qua các năm, do vậy ngân hàng đã đưa ra các chính sách tăng lãi suất tiền gửi tiết kiệm, diễn ra liên tục trong nhiều đợt, dưới nhiều hình thức phong phú.
Nhìn vào bản số liệu 2.1, nguồn huy động từ thị trường liên ngân hàng là nguồn vốn chiếm tỷ trọng thấp trong tổng nguồn vốn, cũng diễn biến phức tạp. Lý do dễ hiểu là khi ngân hàng lâm vào tình trạng thiếu vốn thì các ngân hàng khác, tổ chức tín dụng khác cũng tương tự, do vậy ngân hàng không nên kỳ vọng quá nhiều vào việc vay vốn trên thị trường này để bù đắp những nhu cầu huy động vốn lớn của ngân hàng. Nó cũng phản ánh nhu cầu cần vốn cấp bách của NHTMCPNT là thất thường tuy vào từng thời điểm từng giai đoạn.
2.2.2.2 Các kênh huy động vốn của ngân hàng VCB
i. Nhận tiền gửi
Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của NHTMCPNT. Để có cái nhìn chi tiết chúng ta hãy phân tích bảng số liệu 2.12 dưới đây:
Biểu 2.12: Diễn biến tổng nguồn vốn tiền gửi từ hai thị trường của NHTMCPNT giai đoạn 2006-2008
Đơn vị : tỷ VNĐ
Tiền gửi từ thị trường 1 (bao gồm các cá nhân và các tổ chức kinh tế) | Tiền gửi thị trường 2 | Tổng vốn tiền gửi | ||
Tiền gửi của NHNN, Kho Bạc Nhà Nước | Tiền gửi của tổ chức tín dụng | |||
2006 | 111916.337 | 16791.428 | 12169 | 140876.765 |
2007 | 141589.093 | 12685.256 | 17939 | 172213.349 |
2008 | 156511.18 | 3930.724 | 26230.516 | 186672.42 |
(Nguồn: Báo cáo tài chính của NHTMCP 2006, 2007, 2008)
Tổng nguồn vốn tiền gửi của NHTMCPNT trong giai đoạn 3 năm tăng từ 140.876,765 tỷ VNĐ năm 2006 lên 172.213,349 tỷ VNĐ tương đương với 22,2%, và lên 186.672,42 tỷ VNĐ năm 2008 tương đương với 8,36% theo bảng 2.12. Mức tăng năm 2008 chỉ bằng 1/3 so với năm 2007 do tiền gửi của NHNN, kho bạc nhà nước trong năm 2008 đã giảm 3,2 lần so với năm 2007, trong khi nguồn tiền từ thị trường 1 (gồm dân cư và các tổ chức kinh tế) chỉ tăng nhẹ là ở ngưỡng 10,5% trong khi năm 2007 là 26,5%. Tuy tốc độ tăng này không cao nhưng so với các ngân hàng khác thì nhũng con số trên vẫn đáng được ghi nhận. Bởi lẽ, việc huy động tiền gửi của NHTMCPNT được thực hiện bài bản và hợp lý, việc huy động được lượng vốn sao cho đó là một nguồn vốn chất lượng và độ an toàn cao. Do vậy mà tỷ lệ nợ xấu trung bình của ngân hàng dưới 5% , một tỷ lệ chấp nhận được tránh cho ngân hàng
những rủi ro trong việc huy động nhất là trong thời kỳ suy thoái kinh tế như hiện nay thì đây là một hướng đi đúng đắn.
Từ trước đến nay NHTMCPNT luôn chú trọng đến nguồn vốn từ thị trường 1
– tỷ trọng qua các năm trong tổng nguồn vốn luôn đạt trên dưới 80%. Cụ thể năm 2006, từ thị trường 1, ngân hàng huy động được 79,4% tổng tiền gửi; lên 82,2% năm 2007 và 83,8% năm 2008 theo bảng 2.12. Điều này lý giải tại sao những biến động của nguồn vốn này luôn ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ý thức được tầm quan trọng này, NHTMCPNT đã và đang áp dụng các biện pháp nhằm nâng cao tối đa lượng tiền gửi từ thị trường này
Tuy nhiên nhìn vào bảng số liệu 2.12 ta cũng thấy rằng tốc độ tăng giảm, giải thích cho việc này chính là sự bất ổn của thị trường tài chính trong và ngoài nước. Năm 2007 là thời kỳ hoàng kim của thị trường chứng khoán Việt Nam và bất động sản cũng vì vậy mà hầu hết các khách hàng rút tiền tiết kiệm đi đầu tư chứng khoán và bất động sản nhằm thu lợi nhuận cao, động thái này làm cho lượng tiền gửi huy động của các ngân hàng giảm đáng kể. Tàn dư này vẫn còn đến năm 2008 thị trường chứng khoán tụt dốc, các nhà đầu tư mất quá nửa tiền đầu tư, chỉ có những khách hàng trung thành với ngân hàng mới tiếp tục duy trì lượng tiền gửi với ngân hàng. Qua đây có thể thấy NHTMCPNT đã thực hiện tốt chính sách giữ chân khách hàng và trong bất kỳ tình huống nào thì NHTMCPNT vẫn là ngân hàng tốt nhất Việt Nam.
Nguồn tiền gửi từ thị trường thứ 2 bao gồm của NHNN, kho bạc nhà nước giảm qua các năm trung bình 30% mỗi năm và các tổ chức tín dụng khác lại tăng dần qua các năm trung bình khoảng 31,1% mỗi năm theo bảng 2.12. Ngân hàng nhà nước và kho bạc nhà nước chủ yếu gửi tiền vào các ngân hàng thương mại để thanh toán, chuyển tiền và chuyển vốn từ ngân sách, thực chất nguồn tiền này là rất lớn nhưng do bị san sẻ cho số lượng các ngân hàng thương mại ngày càng nhiều nên tỷ trọng ở NHTMCPNT bị thu hẹp lại. Các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, các ngân hàng nước ngoài cũng là những khách hàng quan trọng của NHTMCPNT. Do vậy ngân hàng ngày càng tạo được niềm tin, sau là thêm nhiều quan hệ hợp tác với các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước khiến họ yên tâm giao phó để
NHTMCPNT thực hiện các giao dịch cho mình. Đây cũng là điểm mấu chốt làm ăn trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng, lĩnh vực là kinh doanh dựa vào niềm tin của đối tác.
Ngoài ra có thể phân tích thực trạng diễn biến hoạt động tiền gửi của NHTMCPNT dựa trên cơ sở kỳ hạn giai đoạn 2006-2008 như sau
Bảng 2.13: Diễn biến nguồn tiền gửi của NHTMCPNT giai đoạn 2006-2008
Tiền gửi từ dân cư và TCKT | Tiền gửi từ các TCTD khác | |||||||
Không kỳ hạn | Có kỳ hạn | Không kỳ hạn | Có kỳ hạn | |||||
Giá trị | Tỷ trọng(%) | Giá trị | Tỷ trọng(%) | Giá trị | Tỷ trọng(%) | Giá trị | Tỷ trọng(%) | |
2006 | 47981 | 43.88 | 61349 | 56.12 | 5554 | 45.64 | 6615 | 54.36 |
2007 | 72655 | 52.9 | 64666 | 47.1 | 6850 | 38.18 | 11089 | 61.82 |
2008 | 52762 | 34.25 | 101284 | 65.75 | 11651 | 53 | 10335 | 47 |
(Nguồn: báo cáo tài chính của NHTMCPNT năm 2006-2008)
Biểu đồ 2.14: Diễn biến nguồn tiền gửi của NHTMCPNT giai đoạn 2006-2008
Biểu đồ tiền gửi từ dân cư và TCKT năm 2006-2008
Đơn vị: Tỷ VNĐ
120000
100000
80000
60000
40000
20000
0
CKH
KKH
2006 2007 2008
Năm
Biểu đồ tiền gửi từ TCTD năm 2006-2008
Đơn vị: Tỷ VNĐ
12000
10000
8000
6000
4000
2000
0
C KH
KKH
2006 2007 2008
Năm
Tiền gửi có kỳ hạn của khu vực dân cư và các TCKT và tiền gửi không kỳ hạn của các TCTD đều có xu hướng gia tăng. Theo bảng 2.13, trong đó tiền gửi có kỳ hạn của dân cư tăng 1,65 lần và tiền gửi không kỳ hạn của các TCTD tăng 2,1 lần. Ngược lại, tiền gửi không kỳ hạn của khu vực dân cư và TCKT và tiền gửi có kỳ hạn của các TCTD khác lại tăng và giảm thất thường. NHTMCPNT là ngân hàng thương mại cổ phần hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ nên không thể tránh khỏi tầm ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tuy nhiên ta vẫn dễ dàng nhận thấy NHTMCPNT vẫn có một nguồn vốn huy động tiền gửi khá ổn định theo biểu đồ 2.14, có chăng cũng chỉ tăng giảm do tâm lý khách hàng mà thôi, còn về mặt chính sách thì ngân hàng vẫn thực hiện rất tốt.
Huy động vốn từ nhận tiền gửi nói chung và tiền gửi có kỳ hạn nói riêng luôn có vai trò đặc biệt đối với NHTMCPNT. Thông qua đó, nó giúp ngân hàng có nguồn vốn đã xác định được kỳ hạn phải trả trong tương lai, giúp ngân hàng chủ động chuẩn bị được nguồn vốn để kịp thời trả cho khách hàng và tránh được rủi ro trong thanh khoản. Ngoài ra việc huy động vốn có kỳ hạn giúp ngân hàng có kế hoạch sử dụng nguồn để cấp tín dụng, đầu tư vào tài sản có, với kỳ hạn thích hợp. Nhận thức được những ưu điểm đó, NHTMCPNT đã có chính sách thu hút tối đa nguồn vốn có kỳ hạn của thị trường. Hiện nay ngân hàng hoàn toàn tự chủ trong việc lựa chọn lãi suất phù hợp với lãi suất thị trường vừa phải đảm bảo đủ cạnh tranh.
ii. Đi vay
Vốn vay chỉ chiếm một phần tương đối trong cơ cấu nguồn vốn của NHTMCPNT nhưng nó cần thiết và quan trọng khi ngân hàng đã sử dụng hết khoản vốn tiền gửi, vốn tự có mà vẫn không đáp ứng được nhu cầu vốn cấp bách lúc đó. Nếu tiếp tục ngồi chờ đợi các khoản tiền gửi của khách hàng thì có thể ngân hàng sẽ mất cơ hội kinh doanh, đầu tư hay làm giảm uy tín với khách hàng vay vốn. Chính vì vậy, vốn vay là phương án tối ưu nhất mà ngân hàng nghĩ tới để tháo gỡ vấn đề về vốn tại thời điểm đó. NHTMNT đã thực hiện hiệu quả kênh này.
-Vay từ ngân hàng Nhà Nước và vay từ thị trường liên ngân
hàng
Nguồn vốn vay từ ngân hàng nhà nước và vay từ thị trường liên ngân hàng
chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn huy động. Trong đó nguồn vốn vay từ ngân hàng nhà nước chỉ mang tính giải pháp tình thế khi ngân hàng hết nguồn vốn vay từ dân cư và các TCKT, các TCTD khác mà vẫn không đáp ứng đủ vốn cần sử dụng. Nhìn chung các ngân hàng thương mại rất ít vay từ ngân hàng nhà nước vì chi phí cho nguồn vay này rất cao.
Bảng 2.15: Diễn biến nguồn vốn vay từ ngân hàng nhà nước và thị trường liên ngân hàng
Đơn vị: tỷ VNĐ
Vay ngân hàng nhà nước | Vay từ thị trường liên ngân hàng | |
2005 | 171.671 | 17363.5176 |
2006 | 16791.428 | 38439.41286 |
2007 | 12685.256 | 28772.38933 |
2008 | 3930.724 | 38373.20071 |
(Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2005, 2006,2007 và BCTC năm 2008)
Biểu đồ 2.16: Diễn biến nguồn vốn vay từ ngân hàng nhà nước và thị trường liên ngân hàng
Biể u đồ diễ n biế n nguồn vay từ NHNN và LNH
45000
40000
Đơn vị: tỷ quy VNĐ
35000
30000
25000
20000
15000
10000
5000
0
17363.52
171.671
38439.41
16791.428
28772.38
12685
38373.2
Vay từ NHNN
Vay từ LNH
3930.724
2005 2006 2007 2008
Năm
Qua biểu đồ 2.16 ta có thể ước tính rằng, nguồn vốn của NHTMCPNT từ thị trường liên ngân hàng là rất đáng kể vượt xa so với nguồn huy động từ ngân hàng nhà nước-chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng nguồn vốn huy động. Cụ thể, trên biểu đồ đã thể hiện rõ cả nguồn vốn huy động từ ngân hàng nhà nước và từ thị trường liên ngân hàng đều tăng mạnh vào năm 2006 ước đạt khoảng 98 lần đối với nguồn vốn từ ngân hàng nhà nước, 2,2 lần với nguồn vốn huy động từ thị trường liên ngân hàng và sau đó lại tương ứng cả hai chỉ tiêu cùng giảm ,.3 lần vào năm 2007 theo bảng 2.15. Năm 2008 là một năm với nhiều biến động với hầu hết các chỉ tiêu như tác giả đã phân tích ở trên; nguồn vốn từ ngân hàng nhà nước giảm tới 3,2 lần trong khi nguồn vốn từ thị trường liên ngân hàng lại tăng 1,33 lần.
Ngân hàng nhà nước là ngân hàng của các ngân hàng34, một trong các khía
cạnh thể hiện điều này là ngân hàng nhà nước tiến hành tiếp vốn (cấp tín dụng) cho các ngân hàng thương mại và các TCTD. Tín dụng được cấp nhằm đảm bảo cung ứng cho nền kinh tế quốc dân có đủ phương tiện thanh toán cần thiết trên cơ sở thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ. Trong vai trò này ngân hàng nhà nước luôn đóng vai trò chủ nợ và là người cho vay cuối cùng. NHTMCPNT nhận tín dụng từ
34 Nguồn: Chủ Biên Nguyễn Đắc Đờn “ tài chình và tiền tệ”, NXB Thống Kê, tháng 10 năm 2008, trang 240
ngân hàng nhà nước dưới nhiều hình thức như tái chiết khấu (mua lại những chứng từ có giá), để hỗ trợ cho các khoản nợ vay của khách hàng, hay để nhằm thực hiện một số dự án v.v..... trong nhiều năm không chiếm một tỷ trọng lớn đây nhưng đây cũng là một nguồn vay có ý nghĩa vô cùng quan trọng với NHTMCPNT. Đồng thời khẳng định được tiềm lực tài chính vững chắc cũng như khả năng phản ứng trước các tình huống xấu của thị trường tài chính như hiện nay của NHTMCPNT là tốt.
Khi việc nay ngân hàng nhà nước gặp khó khăn NHTMCPNT tìm đến thị trường liên ngân hàng, đây là thị trường huy động vốn trong một thời gian rất ngắn vài ngày, vài tuần cùng lắm là 3 tháng. Nguồn huy động này mang tính cấp bách và lượng vốn huy động thường bị giới hạn. Tuy nhiên, NHTMCPNT là ngân hàng có mối quan hệ chặt chẽ với rất nhiều ngân hàng trong và ngoài nước Lãi suất hiện nay trên thị trường này không được ổn định tùy vào từng tình hình thị trường vào mỗi thời điểm khác nhau nhưng dao động trong khoảng 15% đến 16%/năm.
-Vay trên thị trường
Phát hành các loại giấy tờ có giá như kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi là một kênh huy động vốn hữu hiệu đang được NHTMCPNT quan tâm.
Bảng 2.17: Các giấy tờ có giá phát hành giai đoạn 2006-2008
Đơn vị: tỷ VNĐ
Trái phiếu tăng vốn | Kỳ phiếu và trái phiếu | Chúng chỉ tiền gửi | Tổng | |
2006 | 1373.105 | 1480.488 | 5925.19 | 8778.783 |
2007 | 1374.606 | 33.969 | 1812.483 | 3221.058 |
2008 | 30.625 | 2891.387 | 2922.012 |
(Nguồn: BCTC năm 2006-2008 của NHTMCPNT)
Việc huy động vốn từ các giấy tờ có giá đi ngược lại với xu hướng giai đoạn năm 2001-2004, có xu hướng giảm dần. Nguồn huy động này chỉ tăng mạnh vào năm 2006 bởi lượng kỳ phiếu và trái phiếu phát hành cho các tổ chức và cá nhân là rất lớn. Thêm vào đó, năm 2006 và 2007 NHTMCPNT tiến hành phát hành trái phiếu tăng vốn có kỳ hạn 7 năm với lãi suất cố định là 6%/năm, mức lãi suất này là mức lãi suất thấp hơn trên thị trường của các trái phiếu thông thường. Tuy nhiên, do
mục đích của việc phát hành trái phiếu này là nhằm cho phép người mua có quyền sở hữu mua cổ phiểu phổ thông của ngân hàng khi NHTMCPNT phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng, vì thế mà lượng trái phiếu tăng vốn được mua rất nhiều khiến lượng tiền huy động từ kênh này tăng cao trong năm 2006.
Trong năm 2007-2008 lượng kỳ phiếu và trái phiếu phát hành không huy động được nhiều, nguyên nhân là do lãi suất ngân hàng đưa ra chưa hấp dẫn được khách hàng cùng với tỷ lệ lạm phát tăng cao khiến các nhà đầu tư không mặn mà với kênh này. Nên trong 2 năm trở lại đây NHTMCPNT không thực hiện phát hành nhiều loại kỳ phiếu và trái phiếu như năm 2006. Tuy vậy, NHTMCPNT vẫn không ngừng khai thác kênh huy động vốn này với rất nhiều các sản phẩm mới với mục đích tối đa hóa lợi ích của khách hàng. Ví dụ như: phát hành chúng chỉ tiền gửi ngoại tệ và nội tệ - tất cả các kỳ hạn, trả lãi theo yêu cầu của khách hàng với chương trình dự thưởng lên tới 600 triệu VNĐ.
iii. Tăng vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn chủ sở hữu là nguồn vốn khởi đầu và được bổ sung trong quá trình hoạt động. Nguồn vốn ban đầu tuy không chiếm tỷ trọng lớn nhưng có ý nghĩa rất quan trọng bao gồm: vốn điều lệ và các quỹ của ngân hàng như quỹ bổ sung vốn điều lệ, qũy đầu tư phát triển, quỹ dự phòng, quỹ khen thưởng phúc lợi v.v...
Tuy đã tiến hành cổ phần hóa vào cuối năm 2007 nhưng thực tế nhà nước vẫn nắm giữ tới 90% tổng nguồn vốn điều lệ của NHTMCPNT. Nguồn vốn thặng dư cổ phần hóa của ngân hàng được thực hiện theo cách, vẫn giữ nguyên phần vốn của nhà nước và vốn điều lệ tăng thêm do phát hành cổ phần mới cho các nhà đầu tư khác; kể cả các nhà đầu tư nước ngoài35.
35 Nguyễn Phương Linh, Tạp chí Ngân hàng số 15 tháng 8 năm 2008 với tựa đề “Pháp luật về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhìn từ việc cổ phần hoá Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam”
Bảng 2.18: Vốn chủ sở hữu của NHTMCPNT giai đoạn 2005-2008
Đơn vị : tỷ VNĐ
Vốn điều lệ | Các quỹ | Lợi nhuận để lại | Tổng vốn chủ sở hữu | |||||
Giá trị | Mức Tăng (%) | Giá trị | Mức tăng (%) | Giá trị | Mức tăng (%) | Giá trị | Mức tăng (%) | |
2005 | 4279.12 7 | 3886.60 6 | 9.051 | 8174.78 4 | ||||
2006 | 4356.73 7 | 1.81 | 6606.16 | 69.97 | 265.209 | 2830.1 6 | 11228.1 06 | 37.35 |
2007 | 4429.33 7 | 1.66 | 8717.86 | 31.96 | 404.347 | 52.46 | 13551.5 44 | 20.69 |
2008 | 12100.8 6 | 173.19 | 1215.61 9 | -86.05 | ....... | 13316.4 79 | -1.73 |
(Nguồn: Báo cáo thường niên của NHTMCPNT năm 2005-2007 và BCTC 2008)
Biểu đồ2.19: Tình hình biến động nguồn vốn chủ sở hữu của NHTMCPNT giai đoạn 2005-2008
Biểu đồ biến động VCS H
Đơn vị: tỷ VNĐ
14000
Vốn điều lệ Các quỹ
Tổng VCSH
12000
10000
8000
6000 Tổng VC SH
4000
2000
0
2005 2006 2007 2008
Năm
C ác quỹ Vốn điề u lệ
Dù phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt từ các ngân hàng thương mại khác trong hệ thống, xong nhờ xác định đúng đắn mục tiêu hoạt động, NHTMCPNT đã biết phát huy những lợi thế vốn có và khắc phục những hạn chế của mình. Do vậy, ngân hàng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, đặc biệt trong lĩnh vực huy động vốn theo biểu đồ 2.19. Từ một ngân hàng với số vốn chỉ là 1099 tỷ VNĐ vào
năm 2000 đến nay tổng số vốn chủ sở hữu của NHTMCPNT đã đạt 12.100,86 tỷ, NHTMCPNT là một trong những ngân hàng thương mại có số vốn lớn nhất hiện nay.
Có thể thấy, theo bảng 2.18 vốn chủ sở hữu của NHTMCPNT có xu hướng tăng qua các năm và giảm nhẹ vào năm 2008 trong đó bao gồm vốn điều lệ tăng mạnh từ năm 2005 đến 2008 trung bình tăng 58%/năm theo bảng số liệu 2.18 ở trên, trong khi đó vốn từ các quỹ tăng từ năm 2005 đến 2007 trung bình 50%/năm nhưng lại giảm tới 86% vào năm 2008 đó là nguyên nhân khiến tổng VCSH giảm. Một điểm chú ý là tốc độ tăng vượt bậc vào năm 2008 khi mà vốn điều lệ tăng tới 3 lần, nguyên nhân là do ngày 26.12.2007 NHTMCPNT tiền hành phát hành cổ phiếu ra công chúng thu hút sự chú ý của rất nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước, việc phát hành này giúp ngân hàng huy động được một lượng vốn lớn. Mặt khác việc tăng vốn chủ sở hữu của NHTMCPNT là rất hợp lý bởi nếu chỉ tiêu này tăng thì chỉ số an toàn vốn CAR sẽ tăng là tốt nhưng lại không được tăng cao quá sẽ làm giảm tốc độ tăng của chỉ số tỷ suất lợi nhuận ROE, do vậy có thể thấy NHTMCPNT đã điều chỉnh việc tăng vốn chủ sở hữu rất hợp lý.
Còn đối với sự biến động của các quỹ thì nguyên nhân do năm 2008 là năm với nhiều biến cố lớn xảy ra với hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung và với NHTMCPNT nói riêng, nhằm đối phó với sự kiện này ngân hàng đã phải thực hiện hàng loạt các biện pháp tránh rủi ro, thiết lập các quỹ an toàn, xây dựng lại hệ thống ngân hàng cho đủ mạnh để có thể phần nào hạn chế được những rủi ro trong hệ thống tài chính hiện nay. Có thể nói NHTMCPNT là ngân hàng hoạt động rất vững chắc với một hệ thống nguồn vốn ổn định chất lượng và an toàn, điều này sẽ giúp ngân hàng có thể thực hiện được những chiến lược lâu dài của mình một cách dễ dàng hơn.
2.2.2.3 Một số chỉ tiêu về hiệu quả huy động vốn của VCB
Bảng số liệu mang tính chất tương đối vì các số liệu dựa trên chỉ số công bố của ngân hàng nhà nước tại mỗi thời điểm là khác nhau do vậy tác giả lấy số liệu trung bình trong năm
Bảng 2.20: Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn của VCB 2006-2008
2006 | 2007 | 2008 | |
Lãi suất cho vay | 8% | 16.8% | 14% |
Chi phí vốn | 5.2% | 12.3% | 11% |
Hệ số an toàn vốn ( CAR) | 6.8 | 9 | 12 |
Tốc độ tăng trưởng huy động | 26% | 23.78% | 15.78% |
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn | 2,24% | 2.09% | 1,59% |
Lãi suất đầu vào trên lãi suất đầu ra | 0,69 | 0.88 | 0.57 |
( Nguồn: báo cáo thường niên của NHTMCPNT giai đoạn 2006-2008 )
Theo bảng số liệu 2.20 và hệ thống chỉ tiêu đánh giá mục 2.2.2.3 của Chương 1, ta thấy hoạt động huy động vốn của NHTMCPNT đều đạt chuẩn AAA, hệ số an toàn vốn không những cao hơn mức chuẩn của các ngân hàng thương mại Việt Nam là 8 mà còn bằng với mức tiêu chuẩn quốc tế theo Basel II. Chi phí vốn luôn thấp hơn lãi suất huy động do vậy vẫn đảm bảo được lợi nhuận cho ngân hàng. Tuy nhiên, các chỉ số có sự biến động thất thường là:
Chênh lệch giữa chi phí vốn và doanh thu kinh doanh vốn là cao nhất năm 2007 nhưng lại giảm vào năm 2008 do năm 2008 ngân hàng nhà nước liên tục tăng mức dự trữ bắt buộc cũng như việc NHTMCPNT phải tăng mức bảo hiểm tiền gửi cho khách hàng, lãi suất huy động liên tục tăng trong một thời gian dài nên chi phí vốn tăng, trong thời kỳ khó khăn kinh tế hầu hết các ngân hàng phải chấp nhận lợi nhuận ít đi.
Lãi suất đầu vào trên lãi suất đầu ra tăng 27,5% vào năm 2007 và giảm 54% năm 2008 là tình trạng chung của hầu hết các ngân hàng thương mại Việt Nam, như tác giả đã phân tích ở trên thì trong thời kỳ kinh tế suy thoái các ngân hàng buộc
phải chấp nhận thu hẹp khoản cách này và tăng doanh thu từ việc kinh doanh vốn bằng cách tăng thêm nhiều khoản huy động cũng như cho vay.
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn giảm do tốc độ tăng trưởng nguồn vốn từ năm 2006-2008 tăng rất nhanh trong khi chi phí cho hoạt động kinh doanh vốn vẫn đạt mức cao vì NHTMCPNT phải huy động với mức chi phí vốn cao do biến động phức tạp của thị trường tiền gửi. Tóm lại, trong thời kỳ suy thoái kinh tế hoạt động huy động vốn của NHTMCPNT đạt kết quả tốt so với tình hình chung của ngành ngân hàng Việt Nam.
2.2.3 Những thành công và hạn chế trong hoạt động huy động vốn của VCB
2.2.3.1 Những thành công trong hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương
NHTMCPNT luôn là ngân hàng đi đầu thanh toán trong lĩnh vực này-lĩnh vực là thế mạnh của nền kinh tế Việt Nam trong cả một thời gian dài chiếm khoảng trên dưới 30% thị phần cả nước. Không những thế NHTMCPNT còn thực hiện tốt và đầy đủ chức năng của một ngân hàng thương mại là trung gian tín dụng (đứng ra tập trung vốn cho nền kinh tế rồi lại phân phối đến những nơi thiếu vốn), trung gian thanh toán( khi là trung tâm xử lý giao dịch thanh toán điện tử toàn hệ thống các ngân hàng thông qua các sản phẩm chủ đạo như VCB_MONEY-kênh cung cấp tới 97% dịch vụ điện tử cho các khách hàng giao dịch qua NHTMCPNT) và chức năng cung ứng dịch vụ ngân hàng. Tất cả đều được ngân hàng thực hiện đạt kết quả tốt. Để đạt được những thành tựu trên một đóng góp quan trọng có tính quyết định là công tác huy động vốn của NHTMCPNT đã có những bước tiến quan trọng:
-Xét về cơ cấu nguồn vốn
Tỷ trọng nguồn vốn tiền VNĐ tăng lên qua các năm đã thay đổi cơ cấu nguồn vốn của NHTMCPNT phù hợp với định hướng nâng cao tỷ trọng huy động nội tệ trên tổng nguồn vốn. Cơ cấu nguồn vốn VNĐ/ngoại tệ đã được cải thiện đáng kể. Trong tình hình khó khăn của hệ thống tài chính như hiện nay, việc duy trì quan hệ với các khách hàng trung thành cũng như thu hút thêm nhiều khách hàng mới là một việc không đơn giản và nó quyết định sự sinh tồn của một tổ chức tín dụng, NHTMCPNT đã khẳng định được uy tín của mình trong lòng công chúng bởi lượng
vốn huy động từ dân cư ngày càng tăng. Thêm vào đó, nguồn vốn trung và dài hạn của ngân hàng tuy có giảm trong năm 2008 nhưng so với mức huy động của toàn ngành ngân hàng thì đó là một con số không nhỏ. Tính đến thời điểm tháng 12 năm 2008, tổng lượng vốn NHTMCPNT huy động được là 189.594 tỷ quy VNĐ chiếm 13.14% tông vốn huy động của toàn ngành ngân hàng.
Một kết quả khác là NHTMCPNT đã cân bằng được sự mất cân đối trong tốc độ tăng trưởng nguồn vốn với tốc độ tăng trưởng tín dụng là 15,8% và 11,2%. Thêm nữa, nguồn vốn có kỳ hạn ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong tổn nguồn vốn, nguồn vốn này sẽ giúp ngân hàng chủ động các phương án kinh doanh và có phương án tăng độ dự trữ thanh khoản trong những trường hợp cần thiết. Mặt khác, cùng với việc cổ phần hóa vào cuối năm 2007, NHTMCPNT đã tạo ra thêm được một kênh huy động vốn mới từ thị trường chứng khoán. Kết quả trên góp phần giúp cho ngân hàng có thể mở rộng phạm vi kinh doanh của mình hơn nữa nhằm đạt được mục tiêu trở thành một tập đoàn tài chính đa năng.
-Xét về quy mô và tốc độ tăng trưởng của nguồn vốn
Quy mô và tốc dộ tăng trưởng của nguồn vốn huy động tăng đều qua các năm và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng nguồn vốn kinh doanh. NHTMCPNT đã đổi mới căn bản cơ chế huy động vốn cùng với việc đổi mới phương pháp quản lý vốn tập trung, chủ động tìm kiếm các biện pháp thu hút vốn ngoài thị trường và trở thành một trong các ngân hàng thương mại cổ phần có nguồn vốn lớn nhất Việt Nam. Mặt khác duy trì tính lưu động cao của tiền tệ là khâu then chốt giữ cho ngân hàng vận hành một cách lành mạnh.
Khi xảy ra khủng hoảng kinh tế, dân chúng sẽ đổ sô đi rút tiền, do vậy bất cứ một ngân hàng nào cũng phải có chế độ trữ vốn. NHTMCPNT đã thực hiện rất tốt công tác này nên không có tình trạng thiếu vốn xảy ra. Mặt khác trong tình hình lạm phát như hiện nay, ngân hàng nhà nước áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, tính lưu thông tiền tệ bị giảm bớt để hạn chế lạm phát bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc v.v.... nên lượng vốn của các ngân hàng thương mại thiếu ít nhiều. Tuy nhiên nhìn vào diễn biến đi lên của tổng nguồn vốn có thể thấy NHTMCPNT đã thực hiện tốt chính sách huy động vốn trong thời gian này.