Chiến lược hoạt động của các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản và một số gợi ý đối sách cho Việt Nam - 11


Thứ nhất, sửa đổi những chính sách văn bản pháp luật về kinh tế không phù hợp với những quy định của WTO. Đẩy mạnh tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện tốt Luật đầu tư và Luật Doanh nghiệp mới ban hành. Đây là những luật mới sửa đổi có ý nghĩa tạo môi trường thu hút đầu tư bình đẳng đối với đầu tư của TNCs cũng như nhà đầu tư trong nước.

Tăng cường chính sách ưu đãi có sức hấp dẫn cao đối với những lĩnh vực, địa bàn cần thu hút đầu tư của TNCs như: Thực hiện chính sách thuế khuyến khích các dự án công nghệ cao, thực hiện nhanh chương trình nội địa hóa…

Những dịch vụ cung cấp cho các doanh nghiệp của TNCs Nhật Bản nói riêng và TNCs nói chung như bảo hiểm, ngân hàng, bưu chính viễn thông,… cần được giảm thuế suất giá trị gia tăng để giảm chi phí kinh doanh của TNCs.

Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư của TNCs Nhật Bản có thể tự do chuyển đổi hình thức đầu tư và tổ chức lại doanh nghiệp.

Thứ hai, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý đầu tư của TNCs ở nước ta. Quản lý nhà nước được thực hiện trước hết qua cán bộ nhà nước. Để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế đang hội nhập, đội ngũ cán bộ nhà nước phải được đào tạo nâng cao trình độ về mọi mặt. Trước hết, về năng lực chuyên môn phải đạt trình độ quản lý tiên tiến, hiện đại, phù hợp với trình độ quản lý của các đối tác là TNCs. Thường xuyên cập nhập kiến thức về luật pháp, kinh tế quốc tế, nâng cao trình độ ngoại ngữ, am hiểu các đối tác TNCs Nhật Bản . Về phẩm chất đạo đức, chính trị, cán bộ quản lý nhà nước trong lĩnh vực đầu tư của TNCs phải có trách nhiệm, nghĩa vụ đối với Nhà nước, đối với nhân dân, chí công vô tư.

Thứ ba, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư của TNCs. Đẩy mạnh phân cấp quản lý và xây dựng cơ chế phối hợp trong quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư của TNCs. Chú trọng phân cấp quản lý nhà nước đối với


hoạt động liên quan đến mọi khâu trước và sau khi cấp giấy phép đầu tư trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất quản lý về quy hoạch, cơ cấu, chính sách, cơ chế quản lý. Cần tránh sự chồng chéo, lấn sân, rườm rà, kém hiệu quả của hệ thống quản lý nhưng cũng đồng thời tránh hiện tượng “phá rào”, vượt thẩm quyền.

Các cơ quan quản lý nhà nước phải phục vụ các doanh nghiệp có vốn đầu tư của TNCs Nhật Bản như khách hàng. Thường xuyên có sự tiếp xúc trực tiếp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các nhà đầu tư của TNCs. Thành lập các tổ chức tư vấn làm cầu nối chủ động giữa các doanh nghiệp với hệ thống cơ quan quản lý nhà nước để dễ dàng giải quyết những vướng mắc có liên quan đến hoạt động đầu tư của TNCs.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.

Thứ tư, cần đổi mới và nâng cao chất lượng xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Cần có sự chỉ đạo thống nhất về công tác quy hoạch trong toàn quốc, tránh tình trạng bất cập giữa quy hoạch chung của cả nước với quy hoạch của địa phương. Cũng cần có chiến lược thu hút đầu tư của TNCs Nhật Bản vào từng ngành nghề, lĩnh vực chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân. Cũng cần có chiến lược điều chỉnh, cân đối đầu tư của TNCs Nhật Bản vào các vùng, miền trong cả nước. TNCs Nhật Bản thường tập trung vào những địa bàn có điều kiện thuận lợi nhất định cả về kết cấu hạ tầng lẫn thị trường lao động như đã trình bày ở trên, do đó, ngoài việc tiếp tục thu hút đầu tư của TNCs vào những tam giác tăng trưởng trong nước, cần thực hiện tốt chính sách ưu đãi đầu tư vào những địa phương khác.

3. Tạo lập đối tác đầu tư trong nước và phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ

Chiến lược hoạt động của các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản và một số gợi ý đối sách cho Việt Nam - 11

Đối tác đầu tư trong nước có đủ năng lực trong hoạt động liên doanh, hợp tác đầu tư với TNCs Nhật Bản là một nhân tố quan trọng lôi kéo, thu hút TNCs. Để tạo lập đối tác đầu tư trong nước có đủ năng lực trong hoạt động liên doanh, hợp tác đầu tư với TNCs Nhật Bản một cách có hiệu quả, chúng ta cần tiếp tục củng cố và phát triển các doanh nghiệp, đặc biệt là tiếp tục sắp xếp đổi mới, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước, xây dựng các tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, với sự tham gia của các thành phần kinh tế,


khuyến khích sự đầu tư của tất cả các thành phần kinh tế và nâng cao năng lực hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp.

Đồng thời với việc xây dựng các đối tác đầu tư trong nước, cần giải quyết bài toán “phát triển ngành công nghiệp phụ trợ cùng với việc tháo gỡ các vướng mắc khác đang tồn tại ở ngành này”

Hiện nay, Bộ Công nghiệp đang xây dựng một chiến lược phát triển công nghiệp phụ trợ Việt Nam. Theo đó, tập trung cho những lĩnh vực chính mà Việt Nam có khả năng phát triển sớm cũng như thu hút nguồn vốn FDI lớn của TNCs Nhật Bản: ô tô, xe máy; điện tử và công nghệ thông tin; dệt may và các lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng. Tuy nhiên, ngoài quyết tâm của Chính phủ, cần có nỗ lực rất lớn trong liên kết, tập hợp doanh nghiệp, phân công chuyên môn hóa hợp lý. Nỗ lực này không chỉ đòi hỏi sự quyết tâm của Chính phủ trong việc ban hành những chính sách hỗ trợ, mà bản thân các doanh nghiệp cũng phải tự vươn lên, sản xuất ra những linh kiện, phụ tùng đáp ứng yêu cầu chất lượng của các đối tác lớn nước ngoài đặt ra.

Trước mắt, cần rà soát lại các doanh nghiệp nhà nước để tìm ra các đơn vị sản xuất có tiềm năng cung cấp các bộ phận, linh kiện, phụ kiện với chất lượng và giá thành cạnh tranh, từ đó tăng cường hỗ trợ về vốn, công nghệ để tiềm năng trở thành hiện thực. Chính phủ phải có chế độ khuyến khích thỏa đáng cho các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công trong việc sản xuất và cung cấp sản phẩm công nghiệp phụ trợ đạt hiệu quả và chất lượng tốt.

Để phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy cần áp dụng biện pháp nâng cao thuế suất linh kiện nhập khẩu, nhưng chính sách này phải đồng thời gắn với chính sách bảo hộ sản phẩm nguyên chiếc. Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, không thể bảo hộ sản phẩm nguyên chiếc thì cần phải thực thi một hướng khác. Chính sách tối ưu hiện nay là nhanh chóng tăng năng lực cạnh tranh để xuất khẩu được sản phẩm nguyên chiếc, từ đó quy mô sản xuất trong nước tăng nhanh, tạo điều kiện để các doanh nghiệp cung cấp sản phẩm công


nghiệp phụ trợ đầu tư mở rộng sản xuất. Hầu hết các sản phẩm ô tô, xe máy, đồ điện, điện tử gia dụng là những hàng hóa được sản xuất bởi nhiều công đoạn, do đó nên có sự phân công theo hàng ngang giữa các doanh nghiệp trong việc sản xuất và cung cấp cho nhau các linh kiện, bộ phận. Tuy nhiên, phần lớn các dây chuyền công nghệ sản xuất đã được tiêu chuẩn hóa, do đó các doanh nghiệp có xu hướng tích cực gia tăng tỷ lệ nội hóa linh kiện, bộ phận khi sản xuất đạt đến quy mô lớn. Mặt khác, khi sản phẩm hoàn chỉnh được sản xuất cho cả thị trường quốc tế thì các công ty lắp ráp phải thường xuyên thay đổi tính năng, mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm. Điều đó buộc các doanh nghiệp phải luôn luôn duy trì một sự cơ động, mềm dẻo trong việc quản lý dây chuyền cung cấp các sản phẩm phụ trợ, tăng tỷ lệ nội hóa, chủ động tham gia xây dựng các cụm công nghiệp.

Một chính sách dài hạn, toàn diện đối với các ngành công nghiệp ô tô, xe máy, đồ điện, điện tử dân dụng… cần được hình thành ở Việt Nam, trong đó đặc biệt phải có chương trình thu hút và phát triển các cơ sở sản xuất và cung cấp phụ tùng và nguyên vật liệu. Trong các giai đoạn phát triển của những ngành này, các chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp trong nước là hết sức quan trọng.

Việc đầu tư phát triển sản xuất sản phẩm phụ trợ thường phải đối mặt với nhiều bất trắc, rủi ro, chính vì vậy, giữa nhà sản xuất và lắp ráp cần phải có cam kết như cung cấp tư vấn, thiết bị, kỹ thuật của chính hãng để các cơ sở cung cấp linh kiện có niềm tin, an tâm đầu tư mở rộng sản xuất. Cũng cần nhận thức rằng, mỗi doanh nghiệp nên có sự linh hoạt, năng động để tìm lối đi riêng phù hợp với mình. Không thể đòi hỏi nhà lắp ráp tìm đến mình, hoặc thấy họ không có thông tin phản hồi về sản phẩm mà nản lòng không quyết định đầu tư. Các nhà lắp ráp chỉ trả tiền cho những sản phẩm đúng với giá trị thực của nó, với chất lượng cao, thời gian giao hàng chuẩn.

Một yếu tố không thể thiếu khi hợp tác với các doanh nghiệp Nhật Bản, đó là doanh nghiệp phải có chứng chỉ ISO 9000 và ISO 14000. Trong quá trình hợp tác, cần phải thẳng thắn, trung thực, thực hiện nghiêm chỉnh những điều cam kết. Đối


với các doanh nghiệp Việt Nam, đây thực sự là một vấn đề khó nhưng dứt khoát phải thực hiện bằng được.

4. Phát triển nguồn nhân lực


Để thu hút và sử dụng FDI của TNCs Nhật Bản hiệu quả, Việt Nam cần quan tâm nhiều hơn nữa đến đào tạo và quản lý nguồn nhân lực. Xác định rõ con người là nguồn lực cơ bản nhất và là mục tiêu lâu dài của sự phát triển, Đảng và Nhà nước ta luôn coi chính sách giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, đặc biệt là chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng. Do vậy, để phát triển nguồn nhân lực, chúng ta cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Thứ nhất, cải cách triệt để nền giáo dục, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Để giáo dục thực sự là quốc sách hàng đầu, trước hết Nhà nước phải có chính sách trọng dụng nhân tài, thực sự coi “hiền tài là nguyên khí quốc gia”, tạo việc làm thuận lợi, phát huy năng lực của những cán bộ giỏi.

Đi đôi với chất lượng giáo dục cần phải phát triển nhanh quy mô giáo dục và chuyển từ mô hình giáo dục truyền thống sang mô hình giáo dục mới: học tập suốt đời, phát triển nghề nghiệp liên tục, theo đó nhà trường đào tạo những kỹ năng cơ bản để người học ra trường vừa lao động vừa học tập suốt đời.

Thứ hai, đầu tư thích đáng vào đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công nhân làm việc trong khu vực FDI. Tranh thủ nguồn kinh phí từ các quốc gia, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ để đưa cán bộ đi du học nước ngoài hay thành lập các trung tâm nghiên cứu taị các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố HCM…

Xây dựng cơ chế thích hợp để khuyến khích các doanh nghiệp Nhật Bản đào tạo lao động trong và ngoài nước. Khuyến khích các trường đại học và cao đẳng, trung học dạy nghề trong cả nước tham gia nghiên cứu, ứng dụng bán sản phẩm và công trình nghiên cứu cho nhà nước và các doanh nghiệp.


Thứ ba, cần thu hẹp khoảng cách giữa yêu cầu của doanh nghiệp và đào tạo ở nhà trường. Trong điều kiện nền kinh tế mở hiện nay thì thế hệ trẻ có khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật nhanh hơn các thế hệ trước. Chính điều này đã đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư của TNCs. Tuy nhiên, phần lớn TNCs Nhật Bản thường xem kinh nghiệm như một điều kiện để được tuyển dụng, mà đối với hầu hết sinh viên mới ra trường thì đây là một điều kiện khó có thể đáp ứng. Một hình thức hỗ trợ đào tạo thông thường nhất để giúp sinh viên có kinh nghiệm làm việc là tạo điều kiện cho họ được thực hành, thực tập tại doanh nghiệp. Tuy nhiên để làm tốt vấn đề này cần phải tăng cường mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp. Hơn nữa, doanh nghiệp cần cung cấp cho sinh viên mới ra trường các kỹ năng làm việc theo nhóm, xử lý các mối quan hệ trong công ty…

Thứ tư, cần tăng cường các biện pháp hành chính, kinh tế và giáo dục, động viên để nâng cao đạo đức, thái độ lao động mới. Người lao động nước ta vốn có những thói quen sản xuất nhỏ. Đại bộ phận người lao động hiện nay còn chưa được đào tạo về kỷ luật lao động công nghiệp. Phần lớn họ đều xuất thân từ nông nghiệp hoặc nông thôn, tùy tiện về giờ giấc và hành vi. Người lao động chưa được trang bị những kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, chưa có khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng kiến cá nhân và chia sẻ kinh nghiệm làm việc. Rất nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp TNCs Nhật Bản đã phải mất thời gian hàng tháng chỉ để đào tạo tác phong cho công nhân sau đó mới tuyển dụng làm việc tại doanh nghiệp. Do đó, người lao động cần phải trang bị cho mình thói quen lao động mới.


KẾT LUẬN


Các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản đang ngày càng phát triển và mở rộng phạm vi hoạt động, phạm vi ảnh hưởng trên khắp thế giới. Các yếu tố của môi trường bên trong (như điều kiện tự nhiên, tình hình đồng yên lên giá, tình trạng thiếu lao động và những chính sách thúc đẩy của Chính phủ Nhật Bản) cùng với những yếu tố của môi trường bên ngoài (toàn cầu hóa, tình hình khu vực, cách mạng khoa học công nghệ…) đã góp phần không nhỏ tác động đến quyết định đầu tư ra nước ngoài của các TNCs.

Các chiến lược hoạt động tiêu biểu của TNCs Nhật Bản đã được phân tích gồm: chiến lược mạng lưới hóa, chiến đa dạng hóa cơ cấu sản xuất kinh doanh, chiến lược tăng cường sáp nhập và chiến lược địa phương hóa cơ sở sản xuất. Chiến lược mạng lưới hóa đã xây dựng được cho TNCs Nhật Bản một hệ thống chi nhánh rộng khắp trên thế giới, giúp tiến hành kinh doanh và chiếm lĩnh thị trường toàn cầu. Chiến lược đa dạng hóa kinh doanh là phương thức để các TNC phòng tránh rủi ro trong kinh doanh cũng như từng bước thâm nhập lĩnh vực, ngành nghề mới. Hiện các TNC Nhật Bản có cơ cấu kinh doanh với rất nhiều ngành nghề, trong đó chú trọng hơn hết vào ngành công nghiệp chế tạo. Chiến lược tăng cường sáp nhập cũng được các TNC ưa chuộng trong thời gian gần đây, với mức chi phí và số lượng TNCs tham gia M&A tăng nhanh qua các năm. Và một chiến lược được hầu hết TNCs lựa chọn đó là chiến lược địa phương hóa cơ sở sản xuất. Với chiến lược này, các doanh nghiệp của Nhật ngày càng thành công hơn tại thị trường nước ngoài do những nỗ lực hòa nhập địa phương. Mỗi chiến lược được TNCs Nhật Bản thực hiện trong những điều kiện và hoàn cảnh riêng với đối sách riêng, nhưng có thể nói, một TNC trong quá trình hoạt động của mình đều cố gắng phối hợp các chiến lược hiệu quả, nhằm tăng khả năng cạnh tranh, tăng doanh thu, lợi nhuận và tầm ảnh hưởng của mình.

Thực tế hoạt động đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam thời gian qua cho thấy TNCs Nhật Bản đã đánh giá cao hơn môi trường kinh doanh và đầu tư tại Việt Nam. Các hoạt động đầu tư trực tiếp của TNCs Nhật Bản cũng đã thể hiện


phần nào chiến lược đầu tư của họ trên thế giới. Tuy nhiên, cũng còn có những điểm bất cập của môi trường đầu tư Việt Nam khiến những đặc trưng tích cực trong chiến lược đầu tư của TNCs Nhật Bản chưa được biểu hiện rõ tại Việt Nam. Vì vây, khóa luận đưa ra 4 nhóm giải pháp gồm các giải pháp về cải thiên môi trường và chính sách đầu tư; các giải pháp tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước; các giải pháp tạo lập đối tác đầu tư và phát triển công nghiệp phụ trợ và các giải pháp phát triển nguồn nhân lực. Để những nhóm giải pháp trên thực sự phát huy tác dụng cần có sự quan tâm phối hợp thực hiện đồng bộ của cả Nhà nước và doanh nghiệp trong một chiến lược dài hạn.

Mặc dù đã hết sức cố gắng, song khóa luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo để khóa luận được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.

Sinh viên thực hiện Vũ Thị Hà

Xem tất cả 98 trang.

Ngày đăng: 30/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí