Đối với vấn đề hủy quyết định của ĐHĐCĐ, chúng ta cần làm rõ các hệ quả phát sinh khi Tòa án ra phán quyết hủy bỏ quyết định của ĐHĐCĐ, mà cụ thể là hệ quả của phán quyết đó đối với các quyết định khác có liên quan của ĐHĐCĐ, đặc biệt là những quyết định có nội dung phụ thuộc. Cũng như quy định rõ việc hủy bỏ quyết định của ĐHĐCĐ là hủy bỏ một phần trái pháp luật hay hủy bỏ toàn bộ, trường hợp nào là hủy bỏ một phần, trường hợp nào là hủy bỏ toàn bộ. Bên cạnh đó, cũng cần quy định thêm những biện pháp ngăn chặn nhằm hạn chế thiệt hại cho công ty trong thời gian Tòa án xem xét giải quyết yêu cầu hủy bỏ quyết định trên.
Hai là: hoàn thiện các quy định pháp luật về hội đồng quản trị và giám đốc (tổng giám đốc).
Điều 110 LDN 2005 chưa quy định rõ việc người đại diện theo ủy quyền của cổ đông đó có được trở thành ứng cử viên thành viên HĐQT không, nếu Điều lệ cũng không có quy định rõ trường hợp này? Cũng như việc cổ đông thay người đại diện theo ủy quyền đối với phần vốn góp của họ thì người đã đại diện theo ủy quyền đồng thời là thành viên HĐQT có đương nhiên bị mất tư cách thành viên HĐQT không? Theo chúng tôi, tổ chức là một tập thể gồm nhiều người nên không thể trực tiếp tham gia như một cá nhân vào quá trình quản lý công ty. Do vậy, họ cần được thông qua người đại diện theo ủy quyền để đảm bảo quyền lợi của mình như những cổ đông là cá nhân khác. Nếu không thừa nhận tư cách ứng viên HĐQT của người này thì sẽ vi phạm nguyên tắc bình đẳng giữa các cổ đông, xâm phạm quyền lợi chính đáng của cổ đông này. Hơn nữa, bản thân LDN 2005 không bắt buộc thành viên HĐQT phải là cổ đông. Việc quản lý công ty luôn đòi hỏi người quản lý phải có trình độ chuyên môn nhất định, mà điều này không phải lúc nào các cổ đông trong công ty cũng đảm bảo được. Đặc biệt với xu hướng tách rời GĐ (CEO) với HĐQT (Board of directors) hiện nay trên thế giới, thì hơn bao giờ hết, HĐQT phải cần những thành viên có trình độ chuyên môn cao để quản lý hoạt động của GĐ điều hành, nhất là các GĐ thuê có trình độ chuyên môn cao. Do vậy, LDN 2005 cần quy định rõ ràng về việc cho phép người đại diện theo ủy
quyền được trở thành ứng cử viên HĐQT. Cũng theo cách suy luận như vậy, khi chấm dứt vai trò đại diện phần vốn thì không đương nhiên làm mất đi vai trò thành viên HĐQT của họ, và ngược lại nếu thành viên HĐQT đó bị bãi nhiệm thì không đương nhiên mất đi vai trò đại diện theo ủy quyền của họ đối với phần vốn góp. Các văn bản hướng dẫn thi hành LDN 2005 cần quy định làm rõ vấn đề trên theo hướng này.
Về việc quy định số lượng thành viên HĐQT. Như phân tích ở phần thực tiễn (mục 2.3.1.2), việc quy định số lượng thành viên HĐQT ở điều 109 LDN 2005 về nguyên tắc là phù hợp với thông lệ quốc tế, nhưng chúng cũng chưa thực sự rõ ràng, có thể gây ra nhiều cách hiểu khác nhau. Do vậy, khi triển khai thực hiện LDN 2005, văn bản hướng dẫn thi hành cũng cần quy định lại rõ ràng. Theo đó, số lượng thành viên HĐQT là từ 3 đến 11 thành viên; số lượng cụ thể do Điều lệ quy định.
LDN 2005 cũng cần quy định rõ một tỷ lệ tối thiểu các thành viên HĐQT độc lập trong công ty, đồng thời quy định rõ về tiêu chí của thành viên HĐQT độc lập, chức năng, nhiệm vụ, chế độ làm việc và thù lao của thành viên HĐQT độc lập. Có như vậy, Luật mới phát huy được hiệu quả vai trò của HĐQT trong việc giám sát và đánh giá hoạt động điều hành của giám đốc và các nhân viên điều hành cao cấp khác. Điều này cũng phù hợp với thông lệ chung về quản trị công ty của các nước.
Về thẩm quyền của HĐQT và thành viên HĐQT. LDN 2005 nên quy định cho phép HĐQT được áp dụng một số biện pháp khẩn cấp kịp thời nhằm ngăn chặn những thiệt hại có thể xảy ra cho công ty khi không kịp lấy ý kiến ĐHĐCĐ về những vấn đề thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ. Cũng như, cho phép tạm ngưng thực hiện quyết định của ĐHĐCĐ nhằm ngăn chặn thiệt hại nghiêm trọng cho công ty và xã hội, nếu có đầy đủ các dấu hiệu trái pháp luật của quyết định đó.
Ngoài ra, để đảm bảo hiệu quả hoạt động của HĐQT, LDN 2005 nên bổ sung thêm quy định cho phép thành viên HĐQT được quyền “dự thính” mọi
cuộc họp ĐHĐCĐ. Có như vậy mới đảm bảo cho họ nắm bắt được đầy đủ nội dung cuộc họp, nhất là những thành viên HĐQT không phải là cổ đông. Từ đó giúp họ quán triệt tốt hơn quyết định của ĐHĐCĐ.
Về nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của HĐQT và GĐ. Để đảm bảo hiện thực hóa được quyền lực của BKS, LDN 2005 nên bổ sung thêm quy định về chế tài đối với HĐQT khi HĐQT không chấm dứt hành vi vi phạm hoặc không thực hiện giải pháp khắc phục hậu quả theo yêu cầu của BKS. Điều này có ý nghĩa đặc biệt trong việc ngăn chặn hành vi gây hại cho công ty và cổ đông.
Có thể bạn quan tâm!
- Chế độ pháp lý về quản trị công ty ở Việt Nam hiện nay - 7
- Vấn Đề Kiểm Soát Giao Dịch Chứa Khả Năng Tư Lợi Và Nội Gián
- Phương Hướng Và Giải Pháp Hoàn Thiện Chế Độ Pháp Lý Về Quản Trị Công Ty Ở Nước Ta Hiện Nay
- Chế độ pháp lý về quản trị công ty ở Việt Nam hiện nay - 11
- Chế độ pháp lý về quản trị công ty ở Việt Nam hiện nay - 12
Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.
Ngoài ra, khi triển khai thực hiện LDN 2005, các văn bản hướng dẫn nên hướng dẫn thi hành LDN 2005 việc xác định rõ hành vi vi phạm nghĩa vụ quản lý nào được xem là vi phạm nghiêm trọng quyền của cổ đông và nghĩa vụ của người quản lý mà điểm a khoản 3 điều 79 LDN 2005 đã đề cập. Có như vậy mới đảm bảo được tính chặt chẽ trong việc bảo vệ lợi ích của các cổ đông.
Ba là: hoàn thiện các quy định pháp luật về ban kiểm soát
Về việc thành lập và tổ chức BKS. LDN 2005 cần bổ sung thêm quy định về chế độ làm việc của BKS. Vì LDN 2005 hiện nay chưa quy định cụ thể về vấn đề này, trong khi điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với cơ quan này. Bên cạnh đó, để đảm bảo tính chặt chẽ của pháp luật, khi triển khai thực hiện LDN 2005, Chính phủ cũng cần ban hành văn bản hướng dẫn thi hành LDN 2005, trong đó quy định rõ thời hạn phải thành lập BKS khi số lượng cổ đông tăng lên trên 11 cổ đông mà trước đó công ty không có BKS.
Về thành phần BKS. Khi triển khai thực hiện LDN 2005, văn bản hướng dẫn thi hành LDN 2005 cũng cần quy định rõ người “quản lý khác” không được làm thành viên BKS là ai, có bao gồm Kế toán trưởng, Phó GĐ,… Có như vậy thì mới đảm bảo chặt chẽ trong việc áp dụng pháp luật. Vì phần lớn
các Điều lệ công ty hiện nay thường ghi giống quy định của Luật mà không có quy định thêm.
Về việc phân định và thực thi thẩm quyền của BKS. Khoản 5 và khoản 6 điều 98 LDN 2005 cần bỏ quy định yêu cầu BKS phải triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ “thay thế” HĐQT khi HĐQT không tiến hành triệu tập cuộc họp theo yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 điều 79 LDN 2005. Thay vào đó nên cho phép cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 điều 79 LDN 2005 được triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ ngay sau khi quá thời hạn cho phép mà HĐQT không tiến hành triệu tập ĐHĐCĐ. Nghĩa là, Luật bỏ qua bước triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ của BKS. Có như thế mới đảm bảo tính nhanh chóng kịp thời mà không vi phạm nguyên tắc tổ chức quản lý công ty.
Bên cạnh đó, điều 97 LDN 2005 nên sửa đổi lại theo hướng cho phép BKS triệu tập ngay cuộc họp ĐHĐCĐ bất thường mà không cần thông qua thủ tục yêu cầu HĐQT triệu tập, nếu có đầy đủ chứng cứ xác định được hành vi vi phạm nghiêm trọng pháp luật và Điều lệ công ty của HĐQT. Việc triệu tập này cũng không nhất thiết phải được sự phê duyệt của HĐQT về chương trình, nội dung tài liệu họp như điểm l khoản 2 điều 108 LDN 2005 quy định. Có như vậy thì Luật mới đảm bảo được tính độc lập và hiệu quả của BKS trong việc ngăn chặn kịp thời những thiệt hại cho công ty.
Ngoài ra, để đảm bảo cho thành viên BKS nắm bắt được tình hình nội dung cuộc họp ĐHĐCĐ nhằm phục vụ tốt hơn cho công tác giám sát của họ, LDN 2005 nên bổ sung thêm quy định cho phép thành viên BKS được quyền “dự thính” mọi cuộc họp ĐHĐCĐ. Điều này hoàn toàn phù hợp với thông lệ quản trị công ty của các nước trên thế giới, mà Trung Quốc là một ví dụ điển hình.
Bốn là: hoàn thiện các quy định pháp luật về cơ chế giám sát của cổ đông
Về vấn đề chất vấn của cổ đông. LDN 2005 nên quy định bổ sung thêm quyền chất vấn của cổ đông cũng như cơ chế đảm bảo thực thi quyền đó. Điều
này được thực hiện sẽ góp phần làm tăng khả năng giám sát điều hành của cổ đông, giúp ngăn chặn sớm hành vi gây thiệt hại cho công ty của những người quản lý công ty.
Về việc đưa kiến nghị vào chương trình họp ĐHĐCĐ. Thiết nghĩ, đối với những vấn đề liên quan đến trách nhiệm của người quản lý và những giao dịch có tính tư lợi thì không nên hạn chế đưa vào chương trình họp trong bất kỳ cuộc họp nào, dù cho không đúng với nội dung thông báo triệu tập cuộc họp. Bởi nếu thế có thể sẽ gây tốn kém thêm cho công ty khi phải triệu tập đợt họp khác, không đảm bảo được tính kịp thời trong việc ngăn chặn hành vi sai trái gây thiệt hại cho công ty. Do đó, khi triển khai LDN 2005, các văn bản hướng dẫn nên quy định rõ điểm a khoản 3 điều 99 LDN 2005 theo hướng trên.
Về cơ chế đảm bảo các quyền thông tin của cổ đông. LDN 2005 nên bổ sung thêm quy định trách nhiệm đối với người quản lý thông tin khi người này ngăn cản việc thực thi quyền tiếp cận thông tin của cổ đông, cũng như quy định thêm quyền khởi kiện của cổ đông khi họ bị vi phạm quyền tiếp cận thông tin.
Bên cạnh đó, khi triển khai thi hành LDN 2005, văn bản hướng dẫn thi hành LDN 2005 cần quy định rõ những thông tin nào thuộc về bí quyết kinh doanh không được tự do nắm bắt và phát tán. Trên cơ sở đó, quy định những thủ tục cần thiết để đảm bảo ngăn ngừa việc lạm dụng quyền này gây bất lợi cho công ty.
Về quyền tự ứng cử thành viên HĐQT và BKS của cổ đông. LDN 2005 nên bổ sung quy định cho phép những cổ đông quy định tại khoản 2 điều 79 LDN 2005 được quyền tự ứng cử thành viên HĐQT và BKS, nếu họ đồng thời thỏa mãn các điều kiện về ứng viên của cơ quan mà họ muốn ứng cử. Điều này được thực thi sẽ mở rộng khả năng thực thi quyền giám sát của cổ đông. Từ đó đảm bảo tốt hơn quyền lợi của các cổ đông.
Về việc thực thi quyền đề cử thành viên HĐQT và BKS của cổ đông. LDN 2005 nên bỏ thủ tục quyết định số lượng ứng viên của ĐHĐCĐ. Theo đó, LDN 2005 có thể quy định tỷ lệ số ứng cử viên tối đa mà mỗi nhóm cổ đông có thể đề cử trên tổng số ứng viên cần đề cử theo tỷ lệ % cổ phần nắm giữ, gần tương tự như khoản 3 điều 19 và khoản 2 điều 31 Điều lệ mẫu ban hành kèm theo Quyết định 07/2002/QĐ-VPCP. Việc xác định số lượng ứng viên cần đề cử để bầu vào các vị trí trên là do Điều lệ công ty quy định. Trên cơ sở số lượng cổ phần mà mình nắm giữ, tỷ lệ số ứng viên tối đa theo tỷ lệ cổ phần nắm giữ và số ứng viên cần đề cử mà Luật và Điều lệ quy định, cổ đông hoặc nhóm cổ đông tự xác định số lượng và ứng viên cụ thể mà mình đề cử, và gửi trước cho ĐHĐCĐ trước khi tiến hành cuộc họp. Có như vậy mới rút ngắn được thời gian và giảm bớt những chi phí không cần thiết cho công ty, đồng thời đảm bảo tính kịp thời trong việc ra quyết định của ĐHĐCĐ.
Song song đó, LDN 2005 nên định hướng cho các Điều lệ quy định theo hướng giảm dần điều kiện về tỷ lệ nắm giữ cổ phần cho các đợt đề cử sau trong cùng một đợt bầu cử. Đồng thời, Luật cũng cần ràng buộc không cho phép người đã đề cử trong một đợt bầu cử quyền được đề cử tiếp trong các đợt đề cử sau của đợt bầu cử đó. Điều này sẽ giúp đảm bảo công bằng và thỏa đáng quyền lợi của cổ đông nhỏ, đồng thời giảm bớt việc đề cử quá nhiều ứng viên gây khó khăn và tốn kém cho việc bầu cử sau này.
Ngoài ra, khi sửa đổi điểm b khoản khoản 4 điều 79 LDN 2005 theo cơ chế đề cử trên, LDN 2005 cũng cần loại bỏ quy định cho phép HĐQT và BKS đề cử người vào BKS và HĐQT. Thực hiện được điều này sẽ giúp loại bỏ khỏi khả năng HĐQT và BKS đề cử người vào cơ quan của nhau. Từ đó hạn chế được hiện tượng “vây cánh”, vị nể nhau trong việc thực thi nhiệm vụ của mình; góp phần bảo vệ hữu hiệu quyền lợi của các cổ đông, nhất là cổ đông thiểu số. Mặt khác, nó cũng đảm bảo được tính logic của các kiến nghị trên.
Năm là: Hoàn thiện các quy định pháp luật về việc kiểm soát các giao dịch có khả năng tư lợi và nội gián
LDN 2005 cần bổ sung quy định yêu cầu cổ đông nắm khả năng chi phối việc xác lập giao dịch của công ty công bố thông tin về việc họ cũng đang là chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc đang nắm phần vốn góp chi phối ở công ty khác. Đồng thời quy trách nhiệm vật chất của những cổ đông không trực tiếp tham gia quản lý nhưng có khả năng chi phối việc ra quyết định xác lập các giao dịch tư lợi như những người quản lý công ty. Có như vậy Luật mới hạn chế được hiện tượng cổ đông chi phối dịch chuyển lợi nhuận của công ty sang doanh nghiệp khác, nơi mà họ cũng là cổ đông nắm quyền chi phối hoặc là chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp đó.
Đồng thời, cũng cần bổ sung các chế tài nhằm buộc các thành viên HĐQT, thành viên BKS, TGĐ và những người quản lý khác, cũng như cổ đông chi phối phải tuân thủ nghiêm chỉnh quy định tại điểm d khoản 1 điều 119 LDN 2005. Từ đó giúp công ty có thể phát hiện sớm và kiểm soát các giao dịch có khả năng tư lợi của những người này và những người có liên quan của họ với công ty.
LDN 2005 cần bổ sung thêm quy định về trách nhiệm vật chất đối với những hành vi nội gián giúp người ngoài công ty (không thuộc diện người có liên quan quy định tại điều 3 LDN 2005) thực hiện việc mua, bán cổ phiếu gây thiệt hại cho công ty, cũng như trách nhiệm cụ thể của người quản lý đối với những hành vi bất cẩn làm lộ thông tin nội bộ để người khác khai thác gây bất lợi cho công ty. Từ đó tác động răn đe những hành vi nội gián gây bất lợi cho công ty, đồng thời giúp công ty bù đắp các thiệt hại phát sinh do hành vi nội gián đó mang lại.
3.2.2. Một số kiến nghị về chế định quản trị công ty TNHH
Một là: về thành phần HĐTV.
LDN 2005 nên sửa đổi khoản 4 điều 13 lại theo hướng: những đối tượng không được phép quản lý công ty theo quy định tại khoản 2 điều 13 LDN 2005 thì cũng không được phép góp vốn vào công ty TNHH hai thành viên trở lên. Bởi vì, như đã phân tích ở phần thực tiễn, những người góp vốn vào
loại hình công ty đương nhiên trở thành thành viên HĐTV, nghĩa là họ đương nhiên trở thành người quản lý công ty. Như thế sẽ trái với khoản 2 điều 13 LDN 2005, đồng thời gây khó khăn cho công ty trong việc ra các quyết định của HĐTV, nhất là khi những thành viên này chiếm đa số vốn góp trong công ty. Nếu thiết kế theo kiểu thành phần HĐTV không bao gồm những đối tượng quy định tại khoản 2 điều 13, thì cũng không có cơ sở để đảm bảo rằng những đối tượng này không có ảnh hưởng đến việc ra quyết định công ty. Bởi bản thân các thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên thường là những người quen biết và tin cậy nhau, có ảnh hưởng lẫn nhau. Đó là chưa nói đến việc họ có lợi ích từ chính công ty đó. Chính vì vậy, chúng tôi cho rằng việc sửa đổi khoản 4 điều 13 như phương án trên là hợp lý.
Hai là: về việc kế thừa tư cách thành viên của thành viên đã chết.
LDN 2005 không nên quy định cứng nhắc cho phép người thừa kế hoặc người được tặng cho phần vốn góp của thành viên đã chết được đương nhiên kế thừa tư cách thành viên, mà hãy để cho Điều lệ công ty quy định. Nếu Điều lệ không có quy định khác với nội dung quy định trên của LDN 2005 thì mới áp dụng quy định này. Luật chỉ nên bắt buộc trong trường hợp tất cả các thành viên công ty đều qua đời hoặc mất năng lực hành vi dân sự. Với cách quy định này, các thành viên sáng lập có thể tự do thể hiện ý chí của mình về điều kiện kế thừa tư cách thành viên ngay khi thành lập, đồng thời vẫn đảm bảo hợp lý được quyền lợi của những người thừa kế và người được tặng cho, cũng như vẫn kích thích động lực kinh doanh của thành viên công ty. Bên cạnh đó, cách quy định này cũng giúp các chủ thể chủ động hơn trong việc xây dựng Điều lệ của mình. Đồng thời, LDN 2005 cũng cần bổ sung quy định buộc Chủ tịch HĐTV phải triệu tập cuộc họp HĐTV bất thường để xem xét việc thừa nhận hay không thừa nhận tư cách của người thừa kế hoặc người được tặng cho phần vốn góp của thành viên vừa chết, cũng như thời hạn để xem xét việc thừa nhận đó. Nếu Chủ tịch HĐTV là thành viên nắm hơn 75% vốn điều lệ qua đời thì các thành viên còn lại có nghĩa vụ phải triệu tập cuộc họp bất thường để giải quyết vấn đề trên. Có như vậy mới giải quyết được