khai thực thi các chính sách hiện có chưa mang lại kết quả mong muốn, nhiều chính sách chưa thực sự đi vào cuộc sống tạo ra khoảng trống giữa các chính sách và thực tiễn.
Việc đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa tương xứng với vị thế của thủ đô. Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giáo dục còn bất cập. Mạng lưới trường lớp phân bố chưa thật hợp lí; sự quá tải của các trường học khu vực nội thành và các khu đô thị mới; chất lượng giáo dục chưa đồng đều giữa các khu vực. Hầu hết các cơ sở đào tạo, đặc biệt là các trường có quy mô lớn tập trung chủ yếu ở các quận Đống Đa, Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Thanh Xuân và Cầu Giấy. Cơ sở vật chất của nhiều trường còn yếu và thiếu. Đầu tư xây dựng các cơ sở y tế chưa đúng mức. Cơ sở chất chất của các bệnh viện còn hạn chế, tình trạng quá tải tại các bệnh viện vẫn ở mức cao. Chỉ tiêu giường bệnh/10.000 dân chưa đạt, công tác xã hội hóa y tế triển khai chưa đồng bộ.
Tóm lại, tăng trưởng kinh tế của Hà Nội thời gian qua chưa thực sự gắn liền với phát triển xã hội hướng tới mục tiêu vì con người. Khoảng dãn cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo có xu hướng tăng lên, sự bất bình đẳng chung có xu hướng gia tăng. Thành quả của tăng trưởng đã không được phân bổ đồng đều giữa các tầng lớp dân cư, chênh lệch giữa thành thị và nông thôn còn rất lớn. Tăng trưởng kinh tế chưa tạo nên những bước đột phá về mặt xã hội và cuộc sống con người.
3.4.2.3. Về gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường
Quá trình tăng trưởng kinh tế cùng với tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa nhanh chóng đã tạo ra sức ép lớn tới môi trường sống, chất lượng môi trường ngày càng xuống cấp.
Việc chuyển đổi nhiều đất nông nghiệp thành đất ở, lấp nhiều ao, hồ và đất trũng để xây dựng công trình, làm mất sự cân bằng tích chứa nước của đô thị. Hiện tượng bê tông hóa hầu hết diện tích mặt đất đô thị, làm giảm khả năng thấm tiêu nước mưa. Hệ thống sông ngòi thoát nước ngày càng bị thu hẹp và các đường ống, các cống ngày càng bị bồi lắng, hàm lượng BOD5 trong môi trường nước hồ có xu hướng tăng dần theo thời gian.
Ô nhiễm môi trường không khí và tiếng ồn ngày càng tăng. Môi trường không khí
ở thủ đô Hà Nội hiện nay đang bị ô nhiễm nặng, mức độ ô nhiễm không khí ở các đường phố, khi bị tắc nghẽn giao thông gấp 2-3 lần mức độ ô nhiễm khi bình thường. Tốc độ gia tăng chất thải rắn (CTR) từ hoạt động sản xuất, dịch vụ ngày càng tăng lên, song việc thu gom, vận chuyển và xử lí vẫn còn nhiều bất cập.
Có thể bạn quan tâm!
- Tỉ Trọng Các Ngành Trong Tổng Doanh Thu Dịch Vụ (Đvt:%)
- Khía Cạnh Xã Hội Của Chất Lượng Trưởng Kinh Tế
- Đánh Giá Chung Về Chất Lượng Tăng Trưởng Kinh Tế Của Hà Nội
- Bối Cảnh Mới Và Tác Động Đến Chất Lượng Tăng Trưởng Kinh Tế Của Hà Nội
- Quan Điểm, Mục Tiêu Và Định Hướng Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Tăng Trưởng Kinh Tế Của Hà Nội Trong Thời Gian Tới
- Tập Trung Nguồn Lực Đầu Tư Chiều Sâu Cho Các Ngành Mũi Nhọn Và Các Điểm Động Lực Tăng Trưởng Nhằm Tạo Ra Các Lợi Thế Cạnh Tranh
Xem toàn bộ 209 trang tài liệu này.
Có thể thấy, mặc dù, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hà Nội liên tục tăng qua các năm, nhưng chất lượng tăng trưởng vẫn chưa tốt do chưa đầu tư đúng mức đến bảo vệ môi trường. Điều này được thể hiện không những bởi sự ô nhiễm môi trường nước, không khí... mà còn thể hiện qua chất lượng cuộc sống của người dân. Một số chương trình, đề tài nghiên cứu khoa học trong vòng 15 năm qua đã cho thấy những ảnh hưởng, tác động của ô nhiễm đến sức khỏe cộng đồng. Cụ thể là, tỉ lệ bệnh tật đã gia tăng và phù hợp với tình trạng và mức độ ô nhiễm ở nhiều khu vực trên địa bàn Hà Nội.
3.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế và tồn tại
Những hạn chế và tồn tại của chất lượng tăng trưởng kinh tế của Hà Nội thời gian qua xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Một là: Những ảnh hưởng trong ngắn hạn của việc sáp nhập toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã của tỉnh Hòa Bình vào Hà Nội từ tháng 8/2008. Cụ thể, việc sáp nhập đã góp phần dẫn đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hà Nội sau khi mở rộng giảm mạnh từ mức 10,65% xuống còn 7,66% vào năm 2009, hệ số ICOR của Hà Nội năm 2009 lên tới đỉnh điểm 10,72, tỉ phần đóng góp của lao động vào tốc độ tăng trưởng lớn nhất vào năm 2009 với 78,04 điểm %, tỉ lệ hộ nghèo của Hà Nội năm 2008 và 2009 tương ứng là 8,43 và 6,49% cao hơn hẳn các năm trước đó. Việc sáp nhập địa giới hành chính cũng ảnh hưởng đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và khả năng cạnh tranh của Hà Nội. Ngoài ra, việc sáp nhập địa giới hành chính cũng ảnh hưởng đến tính ổn định của bộ máy lãnh đạo, một trong những yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng tăng trưởng kinh tế…Tất cả những điều đó đã góp phần làm sụt giảm chất lượng tăng trưởng kinh tế của Hà Nội trong ngắn hạn.
Hai là: Trình độ công nghệ hiện đang sử dụng ở Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung là thấp tương đối so với các nước trong khu vực. Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) trong Báo cáo Cạnh tranh toàn cầu 2008-2009 đã xếp năng lực cạnh tranh của Việt Nam thứ 70 trong tổng số 134 quốc gia, với 4,1 điểm. Riêng hệ số cạnh tranh về công nghệ, Việt Nam xếp thứ 79, với 3,12 điểm. Việc sử dụng phổ biến công nghệ lạc hậu một mặt làm giảm hiệu quả kinh tế, mặt khác làm gia tăng phát thải gây ô nhiễm môi trường. Đó cũng chính là một trong những nguyên nhân làm cho tỉ trọng đóng góp của vốn và lao động vào tốc độ tăng trưởng của Hà Nội còn cao.
Ba là: Cơ cấu đầu tư chưa phù hợp, có nhiều hoạt động đầu tư mang tính thời điểm. Cơ cấu đầu tư còn dàn trải, lãng phí, kém hiệu quả, chưa mạnh dạn đầu tư “đi tắt - đón đầu”, thực hiện đầu tư còn chậm. Các chính sách thu hút đầu tư vào công nghiệp Hà Nội còn chưa thật sự hấp dẫn so với một số địa phương khác trong cả nước, chưa tập trung đầu tư có trọng điểm, có chọn lọc vào một số ngành, một số lĩnh vực chủ yếu, thiếu các cơ chế hỗ trợ, khuyến khích công nghiệp mang tính đặc thù của Thủ đô... dẫn đến hiệu quả đầu tư còn thấp, quá trình tái cấu trúc theo ngành còn bất hợp lí.
Bốn là: Tư duy của lãnh đạo còn nặng về tăng trưởng kinh tế hay tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá, chưa hiểu được ý nghĩa quan trọng của chất lượng tăng trưởng kinh tế cũng như phát triển bền vững. Với những ưu thế về cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, vị trí địa lí… Hà Nội đã thu hút được một lượng vốn đầu tư khá lớn nhưng đầu tư giàn trải kém hiệu quả. Đầu tư công trên địa bàn chiếm tỉ trọng đáng kể nhưng quản lí kém nên thất thoát lớn dẫn đến chất lượng tăng trưởng kinh tế thấp. Chưa xác định đúng tầm quan trọng cho việc đầu tư phát triển xã hội, phát triển con người, chưa coi việc đầu tư cho phát triển xã hội và đặc biệt là con người cũng chính là đầu tư cho tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, đây chính là yếu tố quyết định cho việc duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế một cách ổn định, lâu dài và bền vững.
Năm là: Việc duy trì mô hình tăng trưởng dựa vào tài nguyên, vốn và lao động giá rẻ quá lâu, trong khi mô hình này đã trở nên lạc hậu không thích hợp với xu thế mới, làm chậm đà tăng trưởng, không phát huy được thế mạnh của Hà Nội so với cả nước là nguồn nhân lực chất lượng cao. Điều đó, một mặt tác động tiêu cực đến hiệu quả đạt được các chỉ tiêu tăng trưởng, gây hiệu ứng lan tỏa không tích cực đến các khía cạnh xã hội và môi trường. Đây cũng chính là nguyên nhân chủ yếu làm chậm lại đà tăng trưởng của Hà Nội trong những năm gần đây. Vì vậy, việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng là cần thiết và được xem như là chìa khóa cho việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế của Hà Nội trong thời gian tới.
3.4.4. Những vấn đề đặt ra đối với việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế của Hà Nội
3.4.4.1. Xác định quan điểm và nhận thức đúng về nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế
Cần phải có tư duy dài hạn, mang tầm chiến lược, xác định rõ mục tiêu của tăng trưởng kinh tế là vì sự phát triển xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống con người. Để thực hiện mục tiêu đó cần phải kết hợp một cách hài hòa, đồng thời giữa mục tiêu tăng trưởng kinh tế với công bằng, tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. Tránh hiện tượng tư duy siêu hình theo kiểu thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế trước, phát triển xã hội sau và ngược lại. Lí thuyết và thực tiễn đã chứng tỏ rằng, việc ưu tiên thái quá mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá nếu đạt được tăng trưởng kinh tế cao trong ngắn hạn, thì cũng phải trả giá bằng những bất ổn về mặt xã hội và sự xuống cấp của môi trường với giá rất đắt, hơn nữa không thể duy trì được trong một thời gian dài hạn.
Việc kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường chính là nguyên tắc của phát triển bền vững. Đó là sự phát triển không chỉ đáp ứng được nhu cầu của các thế hệ hiện tại mà phải thỏa mãn được nhu cầu của các thế hệ trong tương lai. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế tuy gặp phải những khó khăn trước mắt, nhưng đó chính là con đường duy nhất dẫn đến phát triển bền vững. Sự ưu tiên thái quá cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế chỉ thỏa mãn mục tiêu trước mắt, thiếu tầm nhìn dài hạn, phá vỡ tính hài hòa giữa các mục tiêu nêu trên, vì vậy thiếu tính bền vững.
Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế vừa là mục tiêu vừa là điều kiện cần thiết để đạt tới phát triển bền vững.
Là mục tiêu, vì rằng, bản chất của nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế là nhằm đảm bảo cho quá trình tăng trưởng kinh tế hướng tới phát triển kinh tế và tiếp đến là phát triển bền vững. Nếu quá trình tăng trưởng kinh tế không bảo đảm chất lượng tăng trưởng kinh tế sẽ dẫn đến nguy cơ phát triển chệch hướng bền vững.
Là điều kiện, vì rằng, việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế chỉ có thể thực hiện được khi dựa trên một nguồn nhân lực chất lượng cao, áp dụng khoa học và công nghệ tiên tiến, nếu thiếu những yếu tố này thì việc tăng trưởng kinh tế chỉ dựa vào khai thác tài nguyên, vốn đầu tư. Cả hai yếu tố này đều có giới hạn, vì vậy đến một lúc nào đó sẽ triệt tiêu điều kiện cần thiết để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Việc tạo ra một nguồn nhân lực chất lượng cao và áp dụng khoa học, công nghệ cho quá trình tăng trưởng kinh tế thường đòi hỏi phải có một thời gian nhất định. Mọi tư duy
ngắn hạn chỉ quan tâm đến tốc độ tăng trưởng kinh tế trước mắt sẽ không thể đạt được mục tiêu của việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế cũng như phát triển bền vững.
Để tạo ra một nguồn nhân lực chất lượng cao là một quá trình dài, hơn nữa một nguồn nhân lực chất lượng cao còn là kết quả của một môi trường sống trong lành và một xã hội công bằng, tiến bộ, vì vậy phải phân phối thành quả của quá trình tăng trưởng một cách thích hợp giữa đầu tư cho tăng trưởng kinh tế, đầu tư cho tiến bộ công bằng xã hội và đầu tư cho bảo vệ môi trường hay nói một cách khác là phải phân chia thành quả của tăng trưởng kinh tế sao cho để có thể duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế một cách hợp lí vừa phải không quá cao, dành một phần thích hợp nhằm đầu tư cho giáo dục, đào tạo, chăm sóc y tế và bảo vệ môi trường.
Đến một thời điểm nhất định, chính những thành quả của đầu tư cho xã hội và bảo vệ môi trường sẽ tạo ra điều kiện cho tăng trưởng kinh tế. Như vậy, đầu tư cho xã hội và môi trường chính là việc tạo ra đầu vào của một nền kinh tế tăng trưởng theo hướng đảm bảo chất lượng và phát triển bền vững. Đầu tư cho xã hội chính là việc đầu tư cho tăng trưởng kinh tế thông qua việc nâng cao năng suất yếu tố tổng hợp TFP. Đó cũng chính là những khía cạnh cơ bản của chất lượng tăng trưởng kinh tế.
3.4.4.2. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế
Mô hình tăng trưởng kinh tế là phương thức xác định nguồn lực và việc sử dụng các nguồn lực đó để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Nội dung chủ yếu của mô hình tăng trưởng cho biết để đạt được mục tiêu tăng trưởng cần dựa vào nguồn lực nào. Trong lịch sử phát triển của kinh tế thế giới đã từng xuất hiện các mô hình tăng trưởng kinh tế như: mô hình tăng trưởng dựa vào tài nguyên, mô hình tăng trưởng dựa vào vốn đầu tư, mô hình tăng trưởng dựa vào công nghệ, mô hình tăng trưởng dựa vào vốn nhân lực… Chuyển đổi mô hình tăng trưởng là thay đổi từ cách thức thực hiện tăng trưởng này sang cách thức thực hiện tăng trưởng khác nhằm thực hiện được mục tiêu tăng trưởng.
Chuyển đổi mô hình tăng trưởng là một trong những nội dung quan trọng cần thiết để nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. Việc sử dụng hợp lí, hiệu quả các nguồn lực sản xuất là cơ sở để đạt tới tốc độ tăng trưởng cao được duy trì trong dài hạn, đồng thời tạo ra tiền đề vật chất cho việc giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường.
Trong thời gian qua, Hà Nội đã thu hút được một lượng vốn đầu tư đáng kể, tỉ lệ vốn đầu tư trên giá trị tổng sản phẩm tăng thêm (GDP) của Hà Nội thuộc vào hạng cao nhất nước. Tuy nhiên, mô hình tăng trưởng kinh tế chưa hợp lí nên hiệu quả kinh tế chưa cao dẫn đến chất lượng tăng trưởng kinh tế thấp.
Tăng trưởng kinh tế của Hà Nội vẫn đang dựa chủ yếu vào yếu tố vốn, tuy nhiên, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thấp và có chiều hướng giảm thấp vào những năm gần đây. Hệ số ICOR năm 2009 gấp hơn 3 lần mức hiệu quả mà các tổ chức định chế tài chính khuyến cáo cho các nước đang phát triển. Nguyên nhân chủ yếu là do đầu tư dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm; tình trạng thất thoát và lãng phí trong sử dụng vốn đầu tư. Đóng góp của yếu tố lao động còn chiếm một tỉ trọng lớn và có xu hướng tăng, chất lượng lao động thấp và năng suất lao động rất thấp. Tình trạng công nghệ lạc hậu, năng suất của yếu tố TFP ngày càng thấp, đóng góp hạn chế của yếu tố TFP trong tăng trưởng kinh tế của Hà Nội thấp hơn mức bình quân cả nước.
Chuyển dịch cơ cấu giữa các nhóm ngành và đặc biệt là các ngành trong nội bộ các nhóm ngành còn chậm, tuy vậy cơ cấu lao động còn chuyển dịch chậm hơn tạo ra “sự lệch pha” rõ nét giữa cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế. Hiện tượng thừa lao động phổ thông nhưng thiếu lao động lành nghề, “thừa thầy thiếu thợ” diễn ra khá phổ biến…
Năng lực cạnh tranh thấp biểu hiện là sự tụt hạng của Hà Nội trong bảng xếp hạng qua các năm. Điều đó biểu hiện môi trường kinh doanh của Hà Nội chưa thật thông thoáng, hiệu quả quản lí nhà nước các cấp còn nhiều bất cập.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và duy trì trong một thời gian dài, song về mặt xã hội không có sự chuyển biến đáng kể. Điều đó chứng tỏ, Hà Nội chưa đạt được kết quả mong muốn trong việc gắn kết các kết quả của tăng trưởng kinh tế với phát triển xã hội. Khoảng cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo có xu hướng tăng lên, công tác giáo dục và đào tạo còn nhiều bất cập góp phần tạo ra sự “lệch pha” giữa cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế. Đầu tư cho y tế chưa đúng mức, cơ sở vật chất của các cơ sở khám chữa bệnh còn hạn chế, tình trạng quá tải tại các bệnh viện vẫn ở mức cao.
Quá trình tăng trưởng kinh tế cùng với tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa nhanh chóng đã tạo ra sức ép lớn tới môi trường sống, chất lượng môi trường ngày càng xuống cấp. Diện tích cây giảm, ô nhiễm môi trường không khí và tiếng ồn ngày càng tăng. Môi trường
nước ở các sông hồ còn bị ô nhiễm nặng, lượng chất thải rắn ngày càng gia tăng, trong khi đầu tư cho công tác thu gom, vận chuyển và xử lí còn hạn chế.
Như vậy, có thể thấy mô hình tăng trưởng của Hà Nội thời gian qua còn nhiều hạn chế. Tăng trưởng nhanh nhưng hiệu quả thấp, cấu trúc tăng trưởng thiếu bền vững. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu vẫn dựa chủ yếu vào các yếu tố tăng trưởng theo chiều rộng. Còn nặng về quan điểm “tăng trưởng bằng mọi giá” dẫn đến tình trạng đánh đổi cho con số tăng trưởng nhanh là những khoản chi phí kinh tế - xã hội phải bỏ ra quá cao. Sự lan tỏa của tăng trưởng kinh tế đến các đối tượng chịu ảnh hưởng không mạnh và khuynh hướng ảnh hưởng tiêu cực có phần gia tăng. Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng đã đạt đến “ngưỡng”, dẫn đến chất lượng tăng trưởng kinh tế của Hà Nội còn ở mức thấp. Phạm vi lan tỏa của tăng trưởng kinh tế đến các đối tượng chịu ảnh có khuynh hướng không mạnh.
Nhằm khắc phục các hạn chế của mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, tăng trưởng nhờ vào tăng vốn đầu tư và khai thác tài nguyên; mô hình tăng trưởng mới là mô hình tăng trưởng dựa vào hiệu quả và bền vững, tập trung vào mục tiêu chất lượng dài hạn. Chú trọng nâng cao hiệu quả đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lí, ưu tiên phát triển các lĩnh vực, các ngành kinh tế có trọng tâm, trọng điểm và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Mục tiêu của mô hình tăng trưởng kinh tế mới là nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng cao hợp lí, thể hiện được tầm nhìn dài hạn trong mục tiêu tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả của các chỉ tiêu tăng trưởng, gắn kết tăng trưởng kinh tế với nâng cao phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường. Về tư duy, bản chất của việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng là chuyển từ tư duy ngắn hạn sang dài hạn và chiến lược, hay chuyển từ mục tiêu quy mô và tốc độ tăng trưởng sang mục tiêu nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.
3.4.4.3. Cải thiện môi trường kinh doanh
Môi trường kinh doanh đang là một trong những “nút thắt” làm hạn chế hiệu quả tăng trưởng kinh tế đối với Hà Nội và của nước ta hiện nay. Bản chất của tạo ra môi trường kinh doanh là tạo ra môi trường thông thoáng nhằm thu hút các doanh nghiệp trên địa bàn từ các địa phương khác và nước ngoài tham gia đầu tư kinh doanh.
Một môi trường kinh doanh thuận lợi là một hệ thống cơ sở hạ tầng như giao thông, cung cấp, điện, nước, thông tin phát triển, các khu công nghiệp được quy hoạch tốt… Đây là điều kiện cần thiết để thu hút đầu tư, kinh doanh của các doanh nghiệp. Cùng
với các điều kiện hạ tầng kĩ thuật, một môi trường pháp lí thông thoáng là một sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau; một hệ thống pháp lí rõ ràng minh bạch dễ dự đoán, một nền hành chính gọn nhẹ, giảm thiểu các thủ tục phiền hà giảm thiểu chi phí thời gian tiền bạc cho doanh nghiệp…
Rõ ràng môi trường kinh doanh có vai trò quan trọng đối với nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên, môi trường kinh doanh hiện nay ở Hà Nội vẫn còn nhiều hạn chế. Bên cạnh hệ thống cơ sở hạ tầng kĩ thuật còn lạc hậu, thì một trong những nguyên nhân làm hạn chế môi trường kinh doanh của Hà Nội thời gian qua là những yếu kém trong nền hành chính Thành phố. Việc tụt hạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) trong năm 2012 phần nào đã nói lên điều đó.
Cụ thể là, công tác hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy hoạch phát triển còn chậm so với yêu cầu. Hệ thống chính sách về kinh tế vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán, nhiều chính sách quan trọng chưa được hình thành hoặc chưa phù hợp với nền kinh tế thị trường. Cơ chế tham gia của cộng đồng và doanh nghiệp vào việc xây dựng và vận hành thể chế KTTT bước đầu được chú trọng, nhưng kết quả chưa đạt yêu cầu do thiếu những chính sách, biện pháp hiệu quả. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan QLNN với các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp chưa cao; thiếu một hệ thống theo dõi, đánh giá minh bạch hiệu quả trong việc thực thi cơ chế theo dõi, đánh giá.
Các yếu tố thị trường và các loại hình thị trường phát triển chưa đồng bộ, chưa tương xứng với tiềm năng. Tự do cạnh tranh thị trường - cơ chế cơ bản để vận hành hệ thống thể chế KTTT chưa được tạo lập và quản lí đáp ứng yêu cầu. Năng lực và vận hành thể chế của bộ máy nhà nước còn những hạn chế.
Để cải cách nền hành chính thành phố tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế trên địa bàn cần phải đổi mới mô hình tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiện đại, hiệu lực và hiệu quả, chuyển chức năng từ tập trung quản lí sang cung cấp dịch vụ; từng bước áp dụng mô hình chính quyền đô thị; xây dựng chính quyền điện tử của Thành phố đáp ứng yêu cầu quản lí kinh tế phù hợp với tiến trình xây dựng Chính phủ điện tử của cả nước.
Mở rộng phân cấp trên các lĩnh vực để quản lí có hiệu lực và hiệu quả. Sắp xếp tổ chức bộ máy hợp lí từ cấp thành phố đến quận, huyện, thị xã. Nâng cao năng lực quản lí,