Ý Nghĩa Của Quyết Định Hình Phạt.

Thứ nhất, việc sử dụng cụm từ “người phạm tội” trong khái niệm quyết định hình phạt nên được thống nhất bằng cụm từ “cá nhân người phạm tội” thì chính xác hơn với đối tượng của quyết định hình phạt.

Thứ hai, vấn đề cơ bản nhất là các khái niệm quyết định hình phạt trên đây chưa thể hiện được đầy đủ phạm vi của quyết định hình phạt là bao gồm những nội dung nào. Việc lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể đã bao quát hết nội dung của khái niệm quyết định hình phạt chưa? hay việc xác định TNHS, xác định khung hình phạt, miễn TNHS, miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt, giảm mức hình phạt đã tuyên, quyết định cho hưởng án treo... có phải là những nội dung thuộc phạm vi của quyết định hình phạt không? Tất cả những vấn đề đó cần được làm sáng tỏ khi xây dựng khái niệm quyết định hình phạt.

Trên cơ sở phân tích mối quan hệ giữa định tội danh và quyết định hình phạt, các đặc điểm và các nội dung thuộc phạm vi của quyết định hình phạt, dưới góc độ luật hình sự và tố tụng hình sự, khái niệm quyết định hình phạt có thể được định nghĩa như sau:

Quyết định hình phạt là hoạt động nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự, do Toà án có thẩm quyền (Hội đồng xét xử), nhân danh Nhà nước CHXHCN Việt Nam thực hiện sau khi đã định tội danh và tùy thuộc vào từng trường hợp để quyết định khung hình phạt, loại hình phạt (hình phạt chính, hình phạt bổ sung), mức hình phạt cụ thể áp dụng cho chính cá nhân người phạm tội trong phạm vi giới hạn của khung hình phạt do luật định, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hoặc miễn hình phạt cho người phạm tội theo quy định của BLHS.

1.1.3. Ý nghĩa của quyết định hình phạt.

Quyết định hình phạt là một hoạt động tố tụng hình sự, thể hiện ở việc Toà án tuân thủ các quy định của BLHS và BLTTHS để tuyên một hình phạt đảm bảo tính công minh, có căn cứ và đúng pháp luật đối với người phạm tội bị kết án. Qua đó, góp phần tích cực vào việc bảo vệ các quyền con người và

công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung. Vì vậy, quyết định hình phạt có những ý nghĩa quan trọng sau:

a, Quyết định hình phạt đúng là cơ sở pháp lý để đạt được mục đích của hình phạt.

Áp dụng hình phạt đối với người phạm tội để làm gì? Câu trả lời chỉ có thể được đưa ra khi giải đáp được mục đích của hình phạt. Theo từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, mục đích là “dự kiến trong ý thức con người về kết quả nhằm đạt được bằng hoạt động của mình… Với tính cách là động cơ trực tiếp, mục đích hướng dẫn và điều chỉnh mọi hành động31, tr.648. Như vậy, có thể hiểu mục đích của hình phạt là kết quả mà Nhà nước đặt ra và mong muốn đạt được khi áp dụng hình phạt đối với người phạm tội bị kết án. Mục đích của hình phạt tuy là yếu tố quyết định đối với hoạt động quyết định hình phạt nhưng mục đích của hình phạt có đạt được hay không lại phụ thuộc nhiều vào việc quyết định hình phạt được thực hiện như thế nào. Mọi trường hợp quyết định hình phạt sai, quyết định hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ đều sẽ không đạt được mục đích của hình phạt trong thực tiễn và còn làm nẩy sinh những phản ứng tiêu cực, tâm lý chống đối, không tin tưởng vào tính công minh của pháp luật, của các cơ quan bảo vệ pháp luật... từ phía người bị kết án và dư luận xã hội.

Đối với Nhà nước, mục đích của hình phạt là cơ sở để xây dựng hệ thống hình phạt bao gồm các loại hình phạt khác nhau và các chế định liên quan đến hình phạt... Đây chính là những căn cứ pháp lý quan trọng cho việc quyết định hình phạt. Tuy nhiên, để quyết định được một hình phạt đảm bảo tính công minh, đúng pháp luật, phù hợp với lợi ích xã hội còn đòi hỏi các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải luôn có nhận thức đúng đắn về mục đích của hình phạt và mục đích của việc áp dụng hình phạt trong những trường hợp cụ thể.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.

Hiện nay, mục đích của hình phạt được quy định tại Điều 27 BLHS năm 1999 như sau: “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà

còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm2, tr.20.

Căn cứ quyết định hình phạt - Những vấn đề lý luận và thực tiễn - 4

Mặc dù Điều 27 BLHS năm 1999 đã quy định rất cụ thể về mục đích của hình phạt nhưng việc xác định hình phạt có bao nhiêu mục đích và đó là những mục đích gì thì vẫn còn là vấn đề gây nhiều tranh luận trong khoa học pháp lý hình sự. Xuất phát từ những quan điểm khác nhau về số lượng các mục đích của hình phạt và qua tham khảo luật hình sự của một số nước trên thế giới, chúng tôi nhận thấy có bốn quan điểm chính về mục đích của hình phạt là: Quan điểm truyền thống coi các mục đích quan trọng hơn cả của hình phạt là ngăn ngừa riêng và ngăn ngừa chung; Quan điểm nghiêng về trấn áp hình sự coi mục đích của hình phạt chỉ là trừng trị; Quan điểm nghiêng về đạo đức coi mục đích của hình phạt chỉ là giáo dục và cải tạo; Quan điểm mềm dẻo coi các mục đích của hình phạt là cả trừng trị, cải tạo và giáo dục 23, tr.686.

Nhìn chung, tất cả các quan điểm này tựu chung lại đều thừa nhận một trong hai hoặc cả hai mục đích chính của hình phạt là trừng trị và giáo dục người phạm tội. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng trừng trị không phải là mục đích của hình phạt mà là nội dung, là bản chất, là thuộc tính tất yếu của hình phạt, là phương tiện để thực hiện hình phạt 32, tr.222. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý trừng trị là nội dung, là bản chất của hình phạt thể hiện ở sự tước bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội. Sự tước bỏ đó chính là thái độ của Nhà nước đối với người phạm tội trong việc đảm bảo công bằng xã hội và đòi hỏi của công lý. Bất kỳ hình phạt nào của luật hình sự cũng đều có nội dung trừng trị vì nếu thiếu sẽ không có hình phạt, kể cả hình phạt nhẹ nhất là cảnh cáo. Trong thực tế, người phạm tội bị áp dụng hình phạt cảnh cáo thực chất là được Nhà nước tha bổng nhưng không vì thế mà hình phạt này không có nội dung trừng trị. Hình phạt cảnh cáo vẫn buộc

người phạm tội phải chịu án tích và có thể bị tước đi một số quyền và lợi ích hợp pháp nếu bị áp dụng hình phạt bổ sung. Do đó, hình phạt này có tính nghiêm khắc hơn hình phạt cảnh cáo trong luật hành chính.

Nếu trừng trị là nội dung của hình phạt thì việc Nhà nước áp dụng hình phạt đối với người phạm tội bị kết án chính là nhằm trừng trị tội lỗi mà người đó đã mắc phải bằng cách buộc họ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi do việc thực hiện hành vi phạm tội. Mục đích trừng trị đó không chỉ được thể hiện trong việc Nhà nước quy định hệ thống hình phạt mà còn ở nội dung, mức độ nhẹ, nặng của mỗi loại hình phạt; ở điều kiện áp dụng từng loại hình phạt cụ thể và cả trong việc tổ chức chấp hành hình phạt. Ngoài ra, mục đích trừng trị còn được thể hiện rất rõ trong đường lối xử lý tội phạm của Nhà nước là nghiêm trị kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục, cải tạo (Điều 3, Điều 27 BLHS năm 1999). Người không có ý thức tuân thủ pháp luật mà việc áp dụng chế tài của các ngành luật khác không được đảm bảo thực hiện thì Nhà nước phải sử dụng chế tài của luật hình sự là hình phạt để trừng trị họ. Người thực hiện tội phạm càng nguy hiểm, nhân thân càng xấu thì càng phải trừng trị nghiêm khắc. Chính vì vậy, ngày nào hình phạt còn được Nhà nước áp dụng đối với người phạm tội thì ngày đó hình phạt vẫn để trừng trị người phạm tội và đúng như Điều 27 BLHS năm 1999, hình phạt luôn có mục đích trừng trị. Mỗi hình phạt trong luật hình sự Việt Nam đều có nội dung trừng trị. Vì vậy, nếu không thừa nhận hình phạt có mục đích trừng trị thì cũng đương nhiên phủ nhận nội dung trừng trị của hình phạt.

Tuy hình phạt trong luật hình sự Việt Nam là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất (Điều 26 BLHS năm 1999) nhưng điều đó không có nghĩa mục đích trừng trị của hình phạt là nhằm trả thù hay gây đau đớn về thể chất, tinh thần cho người phạm tội và càng không phải là sự đền bù ngang giá giữa tội phạm với Nhà nước là người đại diện cho lợi ích xã hội. Việc Nhà nước áp dụng hình phạt đối với người phạm tội bị kết án không phải là lấy cái ác

để trừ cái ác mà khi trừng trị người phạm tội bằng hình phạt, Nhà nước đã trực tiếp thực hiện việc “răn đe”, là biện pháp cần thiết để qua đó “cảm hoá” người phạm tội, ngăn ngừa họ và người khác phạm tội. Chính việc trừng trị bằng hình phạt đã tác động vào tâm lý làm cho con người biết sợ pháp luật, buộc người phạm tội phải nhận thức ra những sai lầm của mình để từ đó sửa chữa, cải tạo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống XHCN. Như vậy, thông qua trừng trị, răn đe, người phạm tội, hình phạt sẽ giáo dục, cảm hoá người phạm tội (cũng như những người khác) từ bỏ con đường phạm tội, biết kiềm chế mình nếu có ý định phạm tội và có ý thức cẩn thận hơn trong các xử sự dễ có khả năng trở thành tội phạm. Đây mới chính là mục đích cuối cùng, chủ yếu và vì con người của hình phạt trong luật hình sự Việt Nam. Tựu chung lại, nếu hình phạt chỉ có mục đích trừng trị thì chỉ có tác dụng làm cho con người run sợ và tạo điều kiện cho việc xâm hại thô bạo các quyền con người mà không thể cải tạo, giáo dục được người phạm tội. Ngược lại, nếu hình phạt chỉ có mục đích giáo dục sẽ làm cho con người coi thường pháp luật và hình phạt cũng không có tác dụng gì đối với công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Với lý do đó, trừng trị và giáo dục là hai mục đích cơ bản của hình phạt, cùng tồn tại trong một chỉnh thể thống nhất và giữa chúng luôn tồn tại mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau. Trong hệ thống hình phạt của luật hình sự, hình phạt tử hình tuy chỉ nhằm trừng trị người phạm tội nhưng cũng có tác dụng giáo dục, phòng ngừa chung hết sức to lớn. Vì vậy, dựa vào một số quan điểm 44, tr.10 đã nghiên cứu trước, chúng tôi khẳng định rằng, trừng trị không những là mục đích trước tiên của hình phạt mà còn là cơ sở của việc giáo dục và cũng chính là phương tiện mà chỉ thông qua nó mới có thể đạt được mục đích cuối cùng, chủ yếu của hình phạt là giáo dục, cải tạo người phạm tội. Ngược lại, đạt được mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội chính là sự khẳng định vai trò, tác dụng và tính tích cực của mục đích trừng trị.

Như vậy, mục đích của hình phạt có đạt được hay không là phụ thuộc rất nhiều vào việc quyết định hình phạt của Hội đồng xét xử. Trong mọi trường hợp, mục đích của hình phạt chỉ thực sự đạt được khi việc quyết định hình phạt đảm bảo tính công minh, có căn cứ, đúng pháp luật để hình phạt được tuyên có khả năng vừa đạt được mục đích trừng trị, vừa đạt được mục đích giáo dục người phạm tội. Điều đó có nghĩa là ngoài việc tuân thủ các quy định về quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử phải xem xét một cách khách quan các mục đích của hình phạt để không coi nhẹ hay nhấn mạnh riêng mục đích nào. Nếu có bất kỳ vi phạm trong việc xem xét mục đích của hình phạt cũng sẽ dẫn đến việc quyết định hình phạt không chính xác. Cụ thể là việc xem nhẹ mục đích giáo dục, coi trọng mục đích trừng trị sẽ dẫn đến việc quyết định hình phạt quá nặng. Hình phạt trong trường hợp này sẽ chỉ làm cho người bị kết án thù ghét pháp luật và các cơ quan bảo vệ pháp luật, nảy sinh tâm lý chống đối và không có ý thức tự cải tạo, giáo dục. Ngược lại, việc xem nhẹ mục đích trừng trị, coi trọng mục đích giáo dục sẽ dẫn đến việc quyết định hình phạt quá nhẹ. Hình phạt trong trường hợp này không chỉ làm cho người phạm tội có ý thức coi thường pháp luật, không tích cực giáo dục, cải tạo mà còn không đủ khả năng để ngăn ngừa những người khác phạm tội. Vì vậy, quyết định một hình phạt công minh, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội là điều kiện bắt buộc để đạt được các mục đích trừng trị và giáo dục của hình phạt. Theo quan điểm của chúng tôi, nếu đạt được mục đích trừng trị và giáo dục người phạm tội thì đương nhiên hình phạt cũng phát huy được tác dụng giáo dục, phòng ngừa chung, góp phần hình thành ý thức tự giác tuân thủ pháp luật, tính tích cực, chủ động tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm ở các thành viên khác trong xã hội.

Xuất phát từ kết luận về các mục đích của hình phạt nêu trên đây, chúng tôi thấy quy định của Điều 26 BLHS năm 1999 về khái niệm hình phạt: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước

nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội” là chưa chính xác. Theo quy định này thì mục đích của hình phạt là tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội chứ không phải là trừng trị và giáo dục. Vì vậy, để đảm bảo tính chính xác của khái niệm và không bị nhầm lẫm với mục đích của hình phạt được quy định tại Điều 27 BLHS năm 1999 thì Điều 26 nên bỏ chữ “nhằm” và thay bằng cụm từ “thể hiện ở sự”. Theo đó, khái niệm hình phạt sẽ là: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, thể hiện ở sự tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội.

b, Quyết định hình phạt đúng là cơ sở pháp lý đảm bảo và nâng cao hiệu quả của hình phạt.

Ngoài mục đích của hình phạt thì hiệu quả của hình phạt cũng là một yếu tố quan trọng của quyết định hình phạt. Theo từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, hiệu quả “là kết quả mong muốn, cái sinh ra kết quả mà con người chờ đợi và hướng tới31, tr.440. Nếu như mục đích của hình phạt là dự kiến về kết quả mà Nhà nước đặt ra và mong muốn đạt được khi áp dụng hình phạt đối với người phạm tội bị kết án thì hiệu quả của hình phạt chính là kết quả cần đạt được đó. Tuy nhiên, do mục đích của hình phạt trong thực tế luôn đạt được ở những chừng mực nhất định nên mức độ đạt được mục đích của hình phạt chính là kết quả phản ánh hiệu quả của hình phạt. Theo đó, mức độ đạt được các mục đích của hình phạt có tính chất quyết định đối với hiệu quả của hình phạt. Mức độ đạt được mục đích của hình phạt càng cao thì hiệu quả của hình phạt đạt được càng cao và ngược lại, mục đích của hình phạt đạt được ở mức độ thấp thì hiệu quả của hình phạt cũng chỉ đạt được ở mức độ thấp. Muốn hình phạt đạt được hiệu quả cao nhất thì việc áp dụng hình phạt đó đối với người phạm tội bị kết án phải đạt được gần như tối đa tất cả các mục đích của hình phạt.

Nói đến hiệu quả của hình phạt là nói đến tác dụng tích cực của hình phạt đối với công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và đối với xã hội. Vì

vậy, khi hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội bị kết án và thi hành trong thực tiễn thì hiệu quả của hình phạt có được đảm bảo và nâng cao hay không lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau như: Hoạt động xây dựng pháp luật hình sự; hoạt động quyết định hình phạt; việc tổ chức thi hành án và tái hoà nhập cộng đồng; công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm hình thành và nâng cao ý thức pháp luật cho công dân. Trong tất cả các yếu tố này thì quyết định hình phạt là yếu tố mang tính quyết định, quan trọng nhất trong việc đảm bảo và nâng cao hiệu quả của hình phạt. Sở dĩ như vậy vì suy cho cùng, quyết định hình phạt đúng là cơ sở để đảm bảo cho các yếu tố còn lại thực sự có ý nghĩa và phát huy được tác dụng trong thực tiễn. Hoạt động xây dựng pháp luật hình sự dù có tạo ra được một hệ thống hình phạt hoàn hảo đến mấy, với đầy đủ nội dung, điều kiện áp dụng của từng loại hình phạt... thì vẫn sẽ không có giá trị thực tiễn gì nếu việc vận dụng các hình phạt đó không đúng đắn, không tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Điều đó có nghĩa là một hệ thống các loại hình phạt tốt nhưng quyết định hình phạt không tốt thì chỉ đưa đến những kết quả không tốt. Cũng xuất phát từ việc quyết định hình phạt không đúng sẽ làm cho công tác tổ chức thi hành án không đảm bảo được hiệu quả. Người phạm tội bị kết án sẽ không có ý thức tự giác giáo dục, cải tạo, sửa chữa lỗi lầm và không e ngại tiếp tục phạm tội khi được trở về tái hoà nhập với cộng đồng. Đối với xã hội, hình phạt được tuyên không đúng sẽ gây ra những hậu quả tiêu cực như: nhân dân mất lòng tin vào tính công minh của pháp luật, coi thường pháp luật, sợ bị trả thù... và nguy hiểm hơn là không động viên, khuyến khích được nhân dân tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Vì vậy, quyết định hình phạt đúng là giải pháp duy nhất để đảm bảo chất lượng, giá trị thực tiễn của hoạt động xây dựng pháp luật hình sự. Chỉ thông qua việc quyết định hình phạt đúng thì các quy phạm pháp luật hình sự mới có điều kiện trở thành hiện thực và phát huy được tác dụng trong thực

Xem tất cả 144 trang.

Ngày đăng: 24/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí