Từ Năm 1985 Đến Trước Khi Pháp Điển Hoá Blhs Năm 1999.

nêu:


a) Làm thế nào, căn cứ vào đâu để cân nhắc hình phạt cho đúng?

... Trước hết, chúng ta căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hại của

phạm pháp để phân biệt phạm pháp nặng, phạm pháp nhẹ (Ví dụ: ăn cắp của công nguy hại hơn là đụng đến quyền tư hữu, giết người nguy hại hơn đánh người...). Chúng ta cũng căn cứ vào người phạm pháp (tuổi, bản chất, có tiền án hay không, khả năng cải tạo, thành tích...) và trường hợp tăng hoặc giảm tội...

Chúng ta chưa có một bộ hình pháp đầy đủ. Chúng ta phải căn cứ vào pháp luật hiện có, vào đường lối chính sách chung, vào án lệ, kinh nghiệm của chúng ta để xác định tính chất về mức độ nguy hại của phạm pháp cho đúng4, tr.76.

Qua Bản tổng kết này có thể thấy việc quyết định hình phạt đã được dựa trên những căn cứ nhất định. Đó là căn cứ vào “tính chất và mức độ nguy hại của phạm pháp”; căn cứ vào “người phạm pháp (tuổi, bản chất, có tiền án hay không, khả năng cải tạo, thành tích...); căn cứ vào “pháp luật hiện có, vào đường lối chính sách chung, vào án lệ, kinh nghiệm”. Từ những căn cứ này, đối chiếu với các căn cứ quyết định hình phạt được quy định tại Điều 45 BLHS năm 1999 có thể nhận xét:

+ Căn cứ “tính chất và mức độ nguy hại của phạm pháp” có thể xem như tương ứng với căn cứ thứ hai của Điều 45 BLHS năm 1999. Sự khác nhau ở đây chỉ là cách diễn đạt và đối với căn cứ thứ hai của Điều 45 BLHS năm 1999, luật chỉ yêu cầu “cân nhắc” khi quyết định hình phạt.

+ Căn cứ vào “người phạm pháp” cũng được xem như tương ứng với căn cứ thứ ba của Điều 45 BLHS năm 1999. Mặc dù căn cứ “người phạm pháp” đã chỉ ra các đặc điểm thuộc về nhân thân người phạm tội (tuổi, bản chất, có tiền án hay không, khả năng cải tạo, thành tích...) nhưng khái niệm “nhân thân người phạm tội” chưa được sử dụng trong pháp luật hình sự. Đây là một hạn chế do chúng ta chưa có điều kiện để nghiên cứu sâu về khoa học

pháp lý hình sự. Đối với căn cứ thứ ba của Điều 45 BLHS năm 1999, luật chỉ yêu cầu “cân nhắc” khi quyết định hình phạt.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.

+ Trong giai đoạn này, do chúng ta chưa xây dựng được BLHS nên việc căn cứ vào “pháp luật hiện có” là hoàn toàn phù hợp và đảm bảo được tính pháp chế. Vì vậy, căn cứ này cũng được xem như tương ứng với căn cứ thứ nhất của Điều 45 BLHS năm 1999. Do chưa có BLHS và đất nước lại đang trong hoàn cảnh chiến tranh nên việc “căn cứ vào đường lối chính sách chung, vào án lệ, kinh nghiệm” khi cân nhắc hình phạt là điều tất yếu. Bản tổng kết cũng đã chỉ rõ: “b) Cân nhắc hình phạt phải cho đúng chính sách, cho đúng pháp luật... Đây rõ ràng không phải là vấn đề nửa cân tám lạng, nghĩa là không phải là có một số mức hình phạt cố định rất tỷ mỷ có thể áp dụng cho bất cứ mọi trường hợp nào xảy ra trong thực tế; hình phạt phải phù hợp với chính sách, phải có tính cách chính trị, sách lược... Kiên quyết xử nặng khi cần thiết và kiên quyết không bỏ tù khi cần thiết, hai cái đó không mâu thuẫn với nhau... Và có làm như thế mới áp dụng đúng pháp luật, nghĩa là theo đúng chẳng những là điều văn mà lại còn tư tưởng và nội dung chính sách của pháp luật4, tr.76.

Từ khi có BLHS năm 1985 đến nay, “đường lối chính sách chung, án lệ, kinh nghiệm” không còn được xác định là căn cứ quyết định hình phạt. Điều đó là do đường lối chính sách không được thừa nhận là nguồn của pháp luật, còn nếu căn cứ vào án lệ và kinh nghiệm thì sẽ có khả năng dẫn đến tình trạng chủ quan, quyết định hình phạt tuỳ tiện. Mặt khác, chúng ta chỉ căn cứ vào án lệ và kinh nghiệm trong quyết định hình phạt khi chưa có được BLHS hoàn thiện. Tuy nhiên, theo quan điểm của chúng tôi, việc xây dựng và vận dụng đúng đắn án lệ trong quyết định hình phạt vẫn có những tác dụng nhất định, cần được quan tâm nghiên cứu.

Căn cứ quyết định hình phạt - Những vấn đề lý luận và thực tiễn - 7

Nhìn chung, Bản tổng kết này đã ghi nhận khá đầy đủ các căn cứ quyết định hình phạt, đảm bảo cho “... hình phạt không chỉ để trừng trị kẻ phạm pháp. Nó cũng nhằm giáo dục và cải tạo phạm nhân về ý thức tôn trọng

pháp luật và ngăn ngừa kẻ khác phạm pháp nữa, giáo dục người khác4, tr.36. Hạn chế của Bản tổng kết này là chưa thể hiện rõ căn cứ “các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự” mà chỉ ghi nhận cùng “căn cứ vào người phạm pháp... và trường hợp tăng hoặc giảm tội…”. Nhưng có thể khẳng định rằng khi quyết định hình phạt, các Toà án có căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Báo cáo tổng kết công tác năm 1962 của TAND tối cao đã nêu: “... và các Toà án đã dựa vào ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa, chú trọng đến tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, đến nhân thân của bị cáo, đến các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ... để lượng hình4, tr.76. Sau này, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ đã chính thức được ghi nhận trong các pháp lệnh về một số loại tội cụ thể mà các Toà án phải căn cứ vào để lượng hình trong phạm vi một khung hình phạt. Đó là Pháp lệnh ngày 30/10/1967 trừng trị các tội phản cách mạng, Pháp lệnh ngày 21/10/1970 trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, Pháp lệnh ngày 21/10/1970 trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân 4, tr.104-105. Việc quy định các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trong các pháp lệnh này không chỉ giúp cho Toà án lượng hình đúng tội, đúng pháp luật mà còn đảm bảo đúng đường lối chính sách, góp phần tích cực vào đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Trên cơ sở các căn cứ để Toà án lượng hình đã nêu trên đây, TAND tối cao đã có những đánh giá, rút kinh nghiệm và hướng dẫn nhằm đảm bảo cho việc vận dụng đúng những căn cứ này trong thực tiễn. Báo cáo tổng kết công tác 4 năm (1965 - 1968) của TAND tối cao qua đánh giá những sai lầm xẩy ra trong lĩnh vực quyết định hình phạt như “xử quá nhẹ do chỉ căn cứ vào tác hại vật chất không lớn, hoặc do chỉ nhìn thấy tác hại vật chất, tác hại trước mắt mà không nhìn thấy tác hại về chính trị, tác hại lâu dài của hành vi phạm pháp, hoặc do chiếu cố quá đáng tới nhân thân tốt của bị cáo... Ngược lại đã xử phạt quá nặng do nhấn mạnh một chiều tới lý lịch xấu của bị cáo, tới yêu cầu chính trị của địa phương...” đã có chỉ đạo: “... cần kiên quyết


46

khắc phục các hiện tượng lệch lạc hoặc quá nặng căn cứ vào nhân thân của bị cáo hoặc quá nhấn một chiều vào tình hình thời chiến và yêu cầu chính trị của địa phương để lên án một cách tuỳ tiện. Cần thấy rằng nhân thân tốt hay xấu cũng chỉ là một căn cứ để lượng hình mà căn cứ chủ yếu là tính chất và mức độ nghiêm trọng nhiều hay ít của hành vi phạm pháp. Yêu cầu chính trị địa phương cần được coi trọng nhưng không thể tách rời đường lối chung và vấn đề đó cũng chỉ làm cho mức án lên xuống phần nào chứ không thể thay đổi về cơ bản được. Yêu cầu xử nghiêm khắc trong thời chiến là có mức độ, xê xích trong một khung hình phạt nhất định đã được tổng kết và đề ra qua thực tiễn xét xử. Chủ yếu vẫn phải căn cứ vào tính chất và mức độ nghiêm trọng nhiều hay ít của tội phạm, ý thức phạm tội của bị cáo, mức độ tác hại của hành vi phạm pháp kết hợp với các mặt khác như nhân thân tốt hay xấu, yêu cầu chính trị của địa phương và yêu cầu đấu tranh chống phản cách mạng trong thời chiến để quyết định hình phạt được đúng đắn” 4, tr.77-78.

Như vậy, Báo cáo tổng kết này đã một lần nữa khẳng định các căn cứ của việc quyết định hình phạt, trong đó “tính chất và mức độ nghiêm trọng nhiều hay ít của hành vi phạm pháp” là căn cứ chủ yếu, quan trọng nhất. Những hướng dẫn, chỉ đạo hết sức cụ thể trên đây đã thể giá trị pháp lý, tính thực tiễn và tính khoa học cao của Báo cáo tổng kết. Chúng không chỉ giúp cho Toà án lượng hình một cách chính xác, góp phần giải quyết vụ án hình sự theo đúng đường lối, chính sách, mà còn là cơ sở để tiếp tục hoàn thiện và vận dụng đúng các căn cứ quyết định hình phạt cho đến khi có BLHS đầu tiên năm 1985.

2.1.2. Từ năm 1985 đến trước khi pháp điển hoá BLHS năm 1999.


Với sự ra đời của BLHS năm 1985, lần đầu tiên, các căn cứ quyết định hình phạt đã được chính thức quy định Điều 37 với tiêu đề: “Nguyên tắc quyết định hình phạt1, tr.27. Theo quy định của Điều luật, khi quyết định hình phạt, Toà án căn cứ vào: các quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội

và các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự. Có thể nói, nội dung của Điều 37 chính là sự kế thừa trên cơ sở hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về căn cứ quyết định hình phạt từ năm 1945 đến giai đoạn này. Việc quy định căn cứ quyết định hình phạt trong BLHS sẽ đảm bảo cho quyết định hình phạt được thực hiện một cách chính xác và thống nhất trong phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên, qua so sánh giữa nội dung với tiêu đề của Điều 37 BLHS năm 1985 cho thấy việc nhà làm luật đồng nhất giữa “nguyên tắc quyết định hình phạt” với “căn cứ quyết định hình phạt” là chưa thực sự khoa học và chưa chính xác.

Luật hình sự Việt Nam có một hệ thống các nguyên tắc chung để chỉ đạo toàn bộ hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật hình sự. Vì vậy, là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, quyết định hình phạt nhất định phải chịu sự tác động, chi phối bởi các nguyên tắc chung của luật hình sự. Tuy nhiên, để quyết định hình phạt một cách chính xác đối với người phạm tội bị kết án, các nguyên tắc chung của luật hình sự phải được cụ thể hoá thành các nguyên tắc riêng để chỉ đạo hoạt động quyết định hình phạt. Các nguyên tắc này có tính chi tiết hơn các nguyên tắc chung của luật hình sự và có tính đặc thù riêng cho hoạt động quyết định hình phạt. Căn cứ vào khái niệm về các nguyên tắc của luật hình sự 21, tr.64, có thể đưa ra khái niệm:

Nguyên tắc quyết định hình phạt là những tư tưởng chỉ đạo đặc thù trong hoạt động áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự của Toà án (Hội đồng xét xử) nhằm đảm bảo cho hình phạt được quyết định một cách đúng đắn đối với người phạm tội bị kết án.

Khái niệm này đã cho thấy nguyên tắc quyết định hình phạt và căn cứ quyết định hình phạt là hai khái niệm khác nhau. Nguyên tắc quyết định hình phạt là những tư tưởng chỉ đạo đặc thù, buộc Toà án phải tuân theo khi áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự vào quyết định hình phạt. Mặc dù không được quy định cụ thể trong luật, nhưng thông qua nội dung của các

quy phạm pháp luật hình sự, có thể chỉ ra các nguyên tắc quyết định hình phạt hiện nay gồm: nguyên tắc pháp chế XHCN, nguyên tắc nhân đạo XHCN, nguyên tắc công bằng, nguyên tắc cá thể hoá hình phạt. Còn căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cụ thể do BLHS quy định, buộc Toà án phải dựa vào khi quyết định hình phạt là: Quy định của BLHS, tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Nguyên tắc quyết định hình phạt và căn cứ quyết định hình phạt tuy đều tồn tại khách quan, nhưng giữa chúng luôn có mối liên hệ biện chứng với nhau. Có thể nói đó là mối quan hệ giữa cái chung (nguyên tắc quyết định hình phạt) và cái riêng (căn cứ quyết định hình phạt). Nguyên tắc quyết định hình phạt là những tư tưởng xuất phát của các căn cứ quyết định hình phạt. Nói cách khác, các căn cứ quyết định hình phạt chính là những biểu hiện cụ thể của các nguyên tắc quyết định hình phạt. Việc tuân thủ đầy đủ, đúng đắn các căn cứ do BLHS quy định trong quá trình quyết định hình phạt chính là tôn trọng và thực hiện trên thực tế các nguyên tắc quyết định hình phạt. Như vậy, thông qua các căn cứ quyết định hình phạt, các nguyên tắc quyết định hình phạt thể hiện được sự tồn tại của mình. Ngược lại, các căn cứ quyết định hình phạt không thể tồn tại một cách hoàn toàn độc lập mà phải trong mối liên hệ với các nguyên tắc quyết định hình phạt. Tức là, các căn cứ quyết định hình phạt luôn chịu sự chi phối, tác động của các nguyên tắc quyết định hình phạt. Các căn cứ quyết định hình phạt dù được cụ thể hoá và vận dụng như thế nào đi chăng nữa thì cũng không được trái và đi ra ngoài phạm vi của các nguyên tắc quyết định hình phạt. Vì vậy, khi quyết định hình phạt, Toà án không chỉ dựa vào các căn cứ quyết định hình phạt mà còn phải tuân thủ những tư tưởng chỉ đạo của các nguyên tắc quyết định hình phạt. Có như vậy mới đảm bảo cho hoạt động quyết định hình phạt là đúng đắn và hợp pháp.

Từ những phân tích trên, chúng tôi khẳng định không thể đồng nhất

khái niệm “nguyên tắc quyết định hình phạt” với khái niệm “căn cứ quyết định hình phạt”. Việc nhà làm luật sửa tiêu đề của Điều 37 BLHS năm 1985 thành “Căn cứ quyết định hình phạt” tại Điều 45 BLHS năm 1999 cho phù hợp với nội dung của điều luật không những đã chứng minh cho khẳng định trên mà còn thể hiện rõ trình độ phát triển của khoa học pháp lý hình sự.

2.2. Quy định của BLHS năm 1999 về các căn cứ quyết định hình phạt.


Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn trung tâm, mang tính chất quyết định của quá trình tố tụng hình sự. Bản chất của giai đoạn này là Toà án thông qua việc kiểm tra, đánh giá toàn bộ chứng cứ, căn cứ vào kết quả thẩm vấn, tranh tụng dân chủ và tuân theo các quy định của BLHS hiện hành để xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội của một người có phải là tội phạm hay không. Và nếu có tội thì Toà án, nhân danh Nhà nước CHXHCN Việt Nam lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội để tuyên phạt, buộc người phạm tội phải chấp hành nghiêm chỉnh.

Như vậy, hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Toà án chỉ được coi là đúng pháp luật, đảm bảo tính nghiêm minh, công bằng khi xác định đúng tội danh và khung hình phạt; lựa chọn được loại hình phạt và mức hình phạt phù hợp để áp dụng đối với người bị kết án. Bất kỳ sự sai sót nào trong việc giải quyết vấn đề tội danh hay hình phạt đều dẫn tới những hậu quả khôn lường cho người phạm tội và xã hội. Về nguyên tắc, nếu định tội danh sai sẽ dẫn tới việc quyết định hình phạt sai (về khung, loại và mức hình phạt). Nhưng ngay cả trong trường hợp định tội danh đúng thì việc quyết định hình phạt sai vẫn có khả năng xảy ra. Thực trạng này có nhiều nguyên nhân như việc quyết định hình phạt chỉ phản ánh ý chí chủ quan, mang đậm yếu tố tình cảm của người quyết định... nhưng chủ yếu vẫn do vận dụng chưa đúng các căn cứ quyết định hình phạt. Vì vậy, quyết định hình phạt đúng hay sai đều có quan hệ chặt chẽ đến việc tuân thủ các căn cứ quyết định hình phạt. Điều đó đã khẳng định các căn cứ quyết định hình phạt có vị trí, vai trò

đặc biệt quan trọng đối với hoạt động quyết định hình phạt của Toà án các cấp.

Chính vì vậy, để đảm bảo chất lượng, hiệu quả của hoạt động quyết định hình phạt, hạn chế đến mức tối đa sự vi phạm các quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự, Điều 45 BLHS năm 1999 đã quy định các căn cứ quyết định hình phạt mà Toà án bắt buộc phải dựa vào khi quyết định hình phạt. Chỉ khi tuân thủ đầy đủ, nghiêm chỉnh các căn cứ pháp lý này thì Hội đồng xét xử mới có thể quyết định hình phạt đúng pháp luật, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, làm tiền đề cho việc đạt được các mục đích của hình phạt. Theo quy định tại Điều 45 BLHS năm 1999, các căn cứ quyết định hình phạt gồm:

+ Quy định của Bộ luật hình sự;

+ Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;

+ Nhân thân người phạm tội;

+ Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Mỗi căn cứ quyết định hình phạt trên đây đều là những yếu tố khách quan, có nội dung, yêu cầu cụ thể và có tính độc lập tương đối để Toà án dựa vào khi quyết định hình phạt. Nhưng điều đó không có nghĩa là khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử lại vận dụng độc lập từng căn cứ hay đánh đồng chúng mà phải thấy được mối liên hệ chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ cho nhau giữa các căn cứ. Tính độc lập là cơ sở cho sự tồn tại của mỗi căn cứ và cũng là cơ sở để vận dụng đúng các căn cứ quyết định hình phạt, đảm bảo tính khách quan, công bằng của hoạt động quyết định hình phạt.

So với Điều 37 BLHS năm 1985, các căn cứ quyết định hình phạt tại Điều 45 BLHS năm 1999 về cơ bản vẫn được giữ nguyên, trừ căn cứ thứ tư về các tình giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự đã có một số sửa đổi cho phù hợp nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

2.2.1. Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự.

Xem tất cả 144 trang.

Ngày đăng: 24/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí