Phát Hiện Miền Không Gian Mới, Hé Lộ Những Cuộc Đời Dễ Bị Lãng Quên Của Hà Nội Phồn Hoa.

ngữ thành ngữ một cách tự nhiên, cái nôn nóng, giận hờn không che giấu, sôi sục đấy mà vẫn nhân hậu, chan chứa, xót xa.

Cũng có khi, chỉ qua một tiếng chào, Tô Hoài hé lộ cả niềm vui lẫn bi kịch trớ trêu của người lao động. Đó là trong Bắt rượu, ông mô tả cảnh chú Bếp Mỡ “hớt hải từ trong xóm ra chạy lẫn vào đám bắt rượu (khi Tây về bắt), trông thấy tôi, chú nói to:

- A, thằng cu Bưởi về quê ăn tết à? Chú đi tù rượu đây nhé. Mẹ con cháu ở nhà chơi nhé” (14;22). Đi tù rượu - tiếng ấy vang lên cứ ngọt như không, thậm chí vừa nói vừa cười hi hí. Tô Hoài còn tinh tế hơn khi miêu tả cả lời bàn tán đầy ghen tị và bỡn cợt của người dân trong xóm: “Thế là tự dưng giời cho nhà bếp Mỡ cái tết nhé, sướng nhé”. Thế mới biết, đâu chỉ có một Chí Phèo của Nam Cao “xin cụ lại cho con đi ở tù”. Vì với bếp Mỡ, đi tù thay là một việc kiếm ăn, sự sum họp đoàn viên có nghĩa gì nếu cả nhà bị đói, đấy là “giời cho” chứ không phải “giời đày”. Nỗi hân hoan trong tiếng chào của nhân vật đã nói lên sự thật ngang trái mà đau lòng đó.

3.3. Sự phong phú của không gian nghệ thuật

Không gian nghệ thuật chính là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật, thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong trường nhìn nhất định, qua đó, thế giới nghệ thuật cụ thể, cảm tính bộc lộ toàn bộ quảng tính của nó. Không gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian nên mang tính chủ quan. Ngoài không gian vật thể, có không gian tâm tưởng. Do vậy, không gian nghệ thuật có tính độc lập tương đối, không quy được vào không gian địa lý. Không gian nghệ thuật chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng mà còn cho thấy quan niệm về thế giới, chiều sâu cảm thụ của tác giả hay một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để khám phá tính độc đáo cũng như nghiên cứu loại hình của các

hình tượng nghệ thuật. Có thể khẳng định, không gian nghệ thuật trong Chuyện cũ Hà Nộicủa Tô Hoài vô cùng phong phú, bởi ông đã khám phá và miêu tả những miền không gian mới, hé lộ những cuộc đời vô danh thường bị lãng quên.

3.3.1. Phát hiện miền không gian mới, hé lộ những cuộc đời dễ bị lãng quên của Hà Nội phồn hoa.

Trong tác phẩm Băm sáu phố phường, Tô Hoài bằng cảm quan hiện thực đời thường đã chia Hà Nội ra thành ba miền không gian cách biệt: Thứ nhất là khu vực phố Tây, “phần đông chỉ có nhà người Pháp hoặc người An Nam giàu có và sang trọng”. Không gian này có tính loại trừ cao, nên thường vắng, chỉ loáng thoáng người qua lại, nếu lạc vào đó, “người như tôi lúc ấy, những thanh niên chân xỏ đôi guốc mộc, áo dài thâm, bước thất thểu, qua cửa nhà sang trọng hay nhớn nhác nhòm ngó. Thế nào cũng có đội sếp dòi mắt xem có phải kẻ gian “chú chích” hay không” [14,36]. Tất nhiên, miền không gian này không dành cho những thân phận của loài “cỏ dại”, nhưng cũng chẳng phải là nơi lưu trú của kẻ giang hồ. Miền không gian thứ hai: Hàng Đào, Hàng Gai, Hàng Bông, Hàng Ngang, chợ Đồng Xuân, người chen chúc đông đúc qua lại bên này Hồ Gươm, khu buôn bán sầm uất - ở đây mới lắm các tay “chích cược” (trộm cắp) và du côn, du kề. Riêng có miền không gian thứ ba sinh sôi với đời sống thành phố mà ít người nhận ra và phân biệt được. Miền không gian này lại tự tách làm đôi: Các phố nhỏ yên tĩnh hai bên chợ Hôm và đường Huế, đó là phố của những công chức, các ông ký, ông thông và nhà buôn trên phố, phảng phất vẻ êm đềm; còn một vùng khác dưới bãi dọc đê sông Hồng: các bãi Cơ Xá, Nghĩa Dũng, Phúc Xá, bãi An Dương xuống tới bến Phà Đen, toàn những nhà lá, lều lá – “Đấy là nhà của những người nghèo, cu-li dọn kho, bắt-tê cửa ga, kéo xe, phu phen khuân vác, đổi thùng, thợ hồ, người các vùng quê đói rách đổ ra kiếm sống ở thành phố đều chui rúc xuống ở bãi này”.

Trong sáng tác của mình, như một lẽ tự nhiên đến từ đời thực, Tô Hoài thường trở đi trở lại với miền không gian cuối cùng này, ở đó, ông mới phát hiện một Hà Nội lam lũ, với những kiếp lầm than mà ít nhà văn chạm tới. Bãi dọc sông Hồng còn là nơi “tụ tập của sòng bạc và các tay chơi có hạng. Bọn trùm gá bạc như Ba Sinh, Cả Vê, Hai Cua và bao nhiêu đầu trộm đuôi cướp khác. Những tù xổng làm quân cướp ngày, những chúa du côn được chủ xe hàng thuê đứng bến đánh nhau tranh khách đều sinh sống ở đây. Ở trên đê trông xuống chỉ thấy những mái lá lươm nhươm, nhôm nhếch bên bãi đất cát lẫn lộn với mặt nước đỏ rực”. Tô Hoài khi miêu tả không gian nghệ thuật này đã dùng ngòi bút tả thực, cảm giác bề ngoài tàn nhẫn xót xa, khiến những người quen nhìn một Hà Nội mĩ lệ ở bề ngoài không tin được: “Sáng sớm, người ra bờ sông ỉa, đi tha thẩn, con chó lũn cũn theo. Các nhà gánh nước về ăn phèn, đôi thùng cũng từ dưới sông lên, bước lẫn giữa mọi thứ củi mục, phân người, rác rưởi. Buổi chiều, gió lạnh ngoài kia quạt hun hút” [14; 38].

Thế nên, điều dễ hiểu là, đã có lúc, viết về miền không gian cùng khốn với những cảnh đời lam lũ ấy, Tô Hoài đã không giấu nổi sự phẫn uất của mình về những tháng ngày bất công trong quá khứ: “Đời sống thành phố cò con, các ông Tây ăn trên ngồi trốc, còn thì, người ta bới bèo tìm bọ, sinh sống trên lưng nhau, nuôi lẫn nhau. Đi ở, đi phu, đổi thùng, làm mướn, phụ bồi, phụ bếp, kéo xe, kéo quạt, cu- li san, nhà nào cũng có người”. Ông nhấn mạnh sự tương phản của hai miền không gian: thượng lưu hào nhoáng và hạ lưu khổ ải, để lí giải sức hút kinh người của miền ánh sáng kia, đồng thời, nhận chân sự thực phũ phàng về sự thất vọng của những kẻ khốn cùng đã bị miền thượng lưu kia làm tan ảo mộng: “Đêm đêm, bốn phía trong cánh đồng trông lên thấy trời thành phố hửng sáng trong ánh đèn điện, thế là ban ngày người lũ lượt kéo vào. Người vô công dồi nghề, người thất nghiệp đâu cũng nhan nhản. Người ta thất thểu đi tìm việc qua đêm qua ngày” [14;39]. Đáng lưu ý

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

là, sinh tồn trong miền không gian ấy còn có cả những nhà văn, nhà văn của những người cùng khổ - Nguyên Hồng. Nơi ông ở là “một căn nhà vách đất tối om, vào cửa phải cúi đầu. Cả gian nhà kê vừa cái giường chòng. Dưới gầm, chiếc hòm gỗ. Tất tật, gạo nước, nồi niêu, quần áo tống cả vào hòm. Bên chân giường dựng bó củi nứa và cái hoả lò để chị ấy thổi cơm” [14;38]. Có lẽ, cũng bởi cuộc sống nhiều khó khăn như thế mà trang văn của Nguyên Hồng mới thấm đẫm nỗi đời và chứa chan tinh thần nhân đạo.

Tô Hoài còn có ý thức miêu tả không gian của những khu chợ tối tăm, nơi ẩn trốn của lũ trẻ lang thang đói khổ, không gian của Phố Mới tên gọi nghe sang mà hoá ra lại là “cái chợ bán mua người” lớn nhất của thủ đô. Trông vào phố Mới “lúc nào cũng thấy ủ ê, hốt hoảng, những nét mặt người ngoài đường, người đứng tụ tập, ướt át bẩn thỉu. Cả đến trong cái ngách cửa Hậu vào chợ Đồng Xuân cũng lôi ra được một nút người sầu thảm như thế”. Ở phố Mới này đủ loại kẻ ăn người ở trong nhà: con sen, con nhài, con nụ, vú em, u già, cậu nhỏ, anh xe, thằng quýt. Không gian tấp nập, hỗn độn bán mua bởi các mụ Tú Bà “nháo nhác, táo tác chạy đèn cù tán tỉnh chào hàng, nói thách, ngã giá, đòi tiền lót tay, xỉa xói và chửi bới”.

Cảm quan hiện thực trong Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài - 12

Chưa hết, nói đến thủ đô là nói đến thú ăn chơi, trong chốn ăn chơi, không gian cũng phân loại sang hèn, điều mà ít nhà văn viết về Hà Nội chịu tìm hiểu và miêu tả: Nhà hát sang nhất ở phố Khâm Thiên - gắn với nó là những người giàu, tay buôn, tay chơi, mật thám, trùm bạc, chúa tể đầu trộm đuôi cướp, tiêu tiền ném qua cửa sổ. Trung lưu là cô đầu ở Ngã Tư Sở, khách đông và tạp nham, gồm thầy ký sở tư, ông nhà văn, nhà báo đi che tàn, ông buôn nước bọt, ông giáo. Hạ lưu là nhà hát ở Cầu Giấy, Kim Mã và Thượng Cát, đón vét khách bên Hà Nội, khách quê, các ông chánh lý, các bác thợ mũ, thợ khảm, khách lái gỗ, lái dó đường ngược xuôi về. Ứng với loại nhà hát hạ lưu này là những cô đầu Chèm, ngày đi làm cỏ đồng, bắt cua, tối hát, tiếng

trống chầu vì thế mà “trong nhà lá vọng xuống mặt nước nghe lộp độp như dao chặt thịt gà”. Thế mà, cái đêm Vũ Trọng Phụng mất, Nguyễn Tuân và các bạn lại sang ngả bàn đèn suốt sáng hút ở nhà hát bên Thượng Cát. “Cái đêm ngã vào cô đầu nhà quê ấy Nguyễn Tuân có viết trong bài ký Khóc Vũ Trọng Phụng ở tạp chí Tao Đàn. Không hiểu tại sao các ông hút thuốc khóc bạn lạc bước sang tận đấy, buồn quá hay là hết tiền. Bởi vì sáng ra dong từ Thượng Cát về hẳn là cuốc bộ thôi” (14;352).

Với cái nhìn mang đậm cảm quan đời thường này, Tô Hoài có khả năng soi chiếu vào không gian nghệ thuật những vẻ đẹp ở chiều sâu. Ông thuộc một trong số hiếm hoi những nghệ sĩ của hôm nay chỉ cần nhìn “cái nhà, bức tường, vòm cống, bờ hè viền xi măng hay viên đá xanh đều có thể đọc ở đấy ra cuộc đời và nhìn thấy tang thương Hà Nội” [14;39].

3.3.2. Không gian nghệ thuật có sự tương phản, sự đối chiếu giữa quá khứ và hiện tại

Ngôn ngữ của không gian nghệ thuật trong Chuyện cũ Hà Nội được tạo dựng bằng hồi ức và suy cảm của một người đã đi gần hết cuộc đời mình, qua những thăng trầm và biến động, nên, như một lẽ tự nhiên, hình thành cặp không gian tương phản: Hà Nội trong quá khứ và Hà Nội của hôm nay. Đã có lúc, ông thốt lên rằng: “Giữa Hà Nội quen thuộc quá mà phố phường thì thật xa lạ”.

Tô Hoài viết Băm sáu phố phường với một cái nhìn u hoài của người đã qua thời Thạch Lam xưa, để thấy phố phường nay không như xưa nữa. Ông nhấn mạnh sự khác xa này: “Hà Nội xưa kia không có các huyện ngoại thành. Lên đến Bưởi đã là ngoại ô. Ra Cầu Giấy, nói đầy đủ là ra Ô Cầu Giấy là đã hết địa phận thành phố” [14;35]. Thế nên, ông đột ngột liên hệ đến một chuyện kì cục: Năm 1972, máy bay B52 ném bom rải thảm xuống Khâm Thiên. Thế giới lên án Mĩ mưu toan huỷ diệt Hà Nội. Hãng tin Mĩ UPU cải chính: B52 chưa hề ném bom Hà Nộ. Có nghĩa là Mĩ đem bản đồ của Hà Nội

thế kỉ trước ra làm chứng” [14;36]. Trở về với hiện tại để thấy, sự khác biệt đầu tiên của không gian Hà Nội ở hai thời là: phố phường thời Tây chia “từng khu khác nhau. Không có bảng chỉ dẫn, không tường chắn, không ai ngăn cấm nhưng người đi đường phải tự hiểu thế, mà liệu bước” [14;36]. Có nghĩa là ông phần nào nuối tiếc cái trật tự xưa cũ khi so sánh nó với Hà Nội hơi xô bồ trong thời hiện tại.

Không gian Hà Nội đã thay đổi đến không ngờ, kèm theo đó là sự phôi phai của những nét đẹp tự nhiên: “Tưởng như cái hoa và cây xương rồng bà dữ tợn với cành rong rấp ngò, hàng bờ rào rậu lưa thưa ấy cứ đứng đấy mãi, lâu dài đến sốt ruột như trẻ con mong bao giờ thành người lớn. Thế mà cũng biến mất cả”. Tô Hoài trơở lại quê cũ của mình và nhận ra: “Cái xóm nhà tôi ngày trước ẩn mình trong những bụi tre, mấy cây nhãn và giữa những ao chuôm bờ lau la liệt khoai nước và chim cuốc hoàng hôn về kêu khắc khoải” [14;29]. Trông “làng xóm bây giờ san sát”, làm sao người một thuở gắn bó với thôn dã như Tô Hoài không thương nhớ được. Nhất là không gian ấy đã từng là thế giới nghệ thuật quen thuộc, góp phần làm nên không khí nghệ thuật trong tác phẩm của ông, nơi nương náu của những Dế mèn, O chuột. Thế nên, Tô Hoài đối lập hai không gian mà như muốn “chiêu hồn” những cái đẹp tự nhiên đã mất, cả tiếng cuốc nao lòng lẫn những bụi tre bao bọc thôn quê, gọi hồn cả thời thơ ấu và những linh hồn gắn với bụi bờ, ao chuôm lau lách. Thành ra, sau tiếng gọi hồn, ông ngẩn ngơ đối diện trước không gian hiện tại để đối thoại với chính mình trong một tiếc nuối da diết vì tỉnh mộng: “Như vậy đấy. Đôi bên hàng xóm không phải như bây giờ. Nhiều nhà không còn nữa”. Đến cuối tác phẩm, ông lại nhắc điều xưa cũ ấy khiến người đọc hình dung đến một ông già đứng giữa hai bờ không gian quá khứ và hiện tại, lẩm nhẩm điều đã rò mười mươi: “Dần dà mới nhận ra làng xóm thời ấy với bây giờ khác nhau nhiều”.

Đọc Chuyện cũ Hà Nội của Tô Hoài, người đọc vẫn có cảm giác giống như xem một cuốn phim quay chậm từ quá khứ xa, đến quá khứ gần và trở về hiện tại. Góc quay đôi khi rất hẹp, và tâm điểm của ống kính có lúc chỉ hướng về một điểm trên bờ tường đá của nhà pha Hoả Lò. Đấy là khi ông viết: “Trên bờ tường đá nhà pha Hoả Lò nhô lên cái mặt đen nhoáng của người lính da đen bên đầu lưỡi lê sáng rợn. Đã đến giờ đổi tan canh. Năm trước, còn trông thấy cả đôi giày người lính bồng súng đi dạo trên mặt tường chăng dây điện cắm mảnh chai lởm chởm. Bây giờ không thấy nữa. Bức tường quanh nhà Hoả Lò mới được xây cao thêm, có đến một thước, nay vẫn còn hằn cái ngấn xi măng và gờ đá”. Sự tỉ mẩn và chăm chú ấy thật hiếm có và đáng quý. Bởi qua dâu bể, con mắt kia vẫn chăm chú và tinh tế, trí nhớ kia vẫn cắm rễ thuỷ chung để ghi khắc lấy dấu chân của thời gian, như một nhân chứng bền bỉ, nặng lòng với thủ đô.

3.4.Chi tiết đắt giá - một thế mạnh của ngòi bút Tô Hoài

“Chi tiết nghệ thuật là các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng. Hình tượng nghệ thuật cụ thể, cảm động và sống động là nhờ các chi tiết về phong cảnh, môi trường, cử chỉ, nội tâm, hành vi, lời nói” [7;59]. Thoạt đầu người ta chú ý tới giá trị tạo hình và phản ánh của chi tiết nghệ thuật, thường nói đến tính chính xác của chi tiết hiện thực. Dần dần, người ta thấy bản chất sáng tạo, khái quát của nó, khả năng nói nhiều hơn bản thân nó. Tuỳ theo sự biểu hiện cụ thể, chi tiết nghệ thuật có khả năng thể hiện, giải thích, làm minh xác cấu tứ nghệ thuật của nhà văn, trở thành tiêu điểm, điểm hội tụ của tư tưởng trong tác phẩm.

Chi tiết nghệ thuật gắn với quan niệm nghệ thuật của nhà văn về thế giới và con người, với truyền thống văn hoá nghệ thuật nhất định. Trong tác phẩm, có chi tiết chỉ đóng vai trò vật liệu xây dựng làm tiền đề cho cốt truyện phát triển thuận lợi và hợp lí, nhưng cũng có chi tiết nghệ thuật tập trung cho cấu

tứ của tác giả. Các chi tiết nghệ thuật này thường được tác giả nhấn mạnh, tô đậm, lặp lại bằng nhiều biện pháp khác nhau. Có loại chi tiết thuộc về nghệ thuật, nhưng có loại chi tiết có tính nghệ thuật, những tác phẩm đặc sắc phải là tác phẩm có nhiều chi tiết mang tính nghệ thuật đó

Đọc Tô Hoài, người ta có thể dễ dàng hình dung lại một cách chân xác chân dung của lịch sử, không khí của mỗi thời. Có lẽ, vì mỗi chi tiết dẫu là nhỏ nhất trong văn Tô Hoài chính là một tế bào của đời sống được Tô Hoài cấu trúc lại theo quan niệm nghệ thuật của mình. Dường như, trong mỗi một thông điệp mà ông trao đến cho người đọc, lẩn quất một nụ cười hóm hỉnh, một cái nheo mắt của Tô Hoài: cái thời ấy, cái hồi ấy, nó là thế, cả cái hay lẫn cái dở, cả cái cao cả lẫn cái nhem nhuốc thường ngày. Đặc sắc trong hồi ký của Tô Hoài, theo ý tôi, vẫn không ngoài ba điều cơ bản đã nói ở trên: trước hết là nghệ thuật dựng không khí, thứ hai, đặt nhân vật trong muôn mặt đời thường, và thứ ba, các chi tiết rất giàu chất tiểu thuyết.

Một trong những chi tiết giàu tính nghệ thuật và tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài là chi tiết về con chó đá trong tác phẩm cùng tên. Hình ảnh con chó đá vốn liên quan tới tục thờ cúng của người ở làng quê, vậy mà qua việc miêu tả quan sát mối quan hệ của con vật vô tri vô giác này với những con người xung quanh nó, Tô Hoài khiến người đọc liên tưởng và suy ngẫm ra bao điều thấm thía, có hài hước có xót xa đắng đót trong lòng. Thứ nhất, con chó đá vốn không thân phận, chẳng qua chỉ là vật để thờ, nhưng việc được thờ ở những nơi khác nhau khiến nó cũng có những hình thù, thân phận khác nhau: “Con chó đá nhà tôi bé tí teo, còn bên cổng đình, cổng chùa thì con chó đá lừng lững cao to bằng chó thật…Con chó đá xây bên cổng nhà ông hộ Nghĩa trong xóm thì tuần rằm được hai nén hương, một miếng thịt lợn sống đặt trong cái đĩa sứ, một cút rượu mở nút sẵn. Nhà có nhà nghèo đều khói hương những ngày tết nhất mời ông thần , về “thượng hưởng”, nhưng chó nhà khó

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 22/07/2022