chức và công dân trên một số lĩnh vực liên quan đến nhà, đất, xây dựng, quy hoạch,… vẫn còn chậm trễ so với thời gian quy định, tỷ lệ giải quyết đúng hạn còn thấp so với các lĩnh vực khác. Quy trình, thủ tục hành chính tuy đã được rà soát, điều chỉnh, nhưng một số loại hồ sơ thủ tục vẫn còn nhiều rườm rà, phức tạp; sự phối hợp giữa các cơ quan, nhất là những lĩnh vực có liên quan đến các ngành vẫn còn thiếu đồng bộ, chặt chẽ. Thủ tục, trình tự giải quyết hồ sơ hành chính giữa các sở-ngành và quận-huyện, vẫn còn chưa thống nhất, nhất là lĩnh vực nhà, đất, thẩm định, phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng… Còn gây phiền hà đối với tổ chức và công dân. Bộ máy hành chính các ngành đã được sắp xếp, tiếp tục kiện toàn, song vẫn còn có những mặt chưa thật sự hợp lý, từ đó chưa tạo được sức mạnh tổng hợp trong quá trình vận hành của bộ máy hành chính. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của sở-ngành vẫn chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển của một đô thị lớn, tình hình hội họp vẫn chưa giảm, nội dung và chất lượng chậm đổi mới.
Thực tế triển khai CCHC cũng đã chỉ ra có một số vấn đề nổi lên cần được các ngành, các cấp có thẩm quyền xem xét giải quyết, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho cơ sở giải quyết công việc hành chính theo nhu cầu của công dân như: Thủ tục, quy trình giải quyết một số loại hồ sơ nhất là lĩnh vực liên quan đến đất đai, nhà cửa còn phức tạp; tính liên thông “một cửa” chưa thật sự thông suốt; mối quan hệ phối hợp giữa một số ngành thiếu đồng bộ, chặt chẽ; một bộ phận cán bộ, công chức năng lực còn hạn chế; định mức khoán kinh phí quản lý hành chính đối với cấp phường còn thấp; việc sao y và lưu trữ bản sao chậm được cải tiến…
Để giải quyết có kết quả một số vấn đề bất cập đó, Thành ủy, Ban Chỉ đạo CCHC của thành phố đã kiến nghị, cụ thể: - Về thủ tục, quy trình giải quyết hồ sơ hành chính: 100% các thủ tục, quy trình hành chính liên quan đến công dân và doanh nghiệp phải được các ngành chức năng liên quan hoàn thiện việc rà soát, chuẩn hóa, mẫu hoá, công bố công khai để thống nhất thực hiện. Và để đảm bào tiến trình này, đề nghị giao cho Sở Tư pháp chủ trì, phối hợp với Thường trực Ban Chỉ đạo CCHC thành phố tăng cường kiểm tra, đôn đốc các ngành, các cấp liên quan tập trung thực hiện đảm bảo tiến độ thời gian theo quy định.
Bài học kinh nghiệm
Từ thực tiễn tiến hành CCHC ở TP. Hồ Chí Minh có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Thành phố Hà Nội như sau:
- Một là: Đổi mới về nhận thức đối với CCHC: Trước hết phải có sự đổi mới về nhận thức trong bộ máy chính quyền địa phương về CCHC, luôn coi CCHC là khâu đột phá và mở đường cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội; phải tôn trọng những đối tượng sử dụng các dịch vụ do cơ quan hành chính nhà nước cung ứng là “khách hàng” thực sự, do đó các hoạt động cung ứng dịch vụ công cần được bảo đảm để đáp ứng nhu cầu của “khách hàng”. Trong quá trình CCHC phải có những bước đi thích hợp, với những đột phá mới trong lĩnh vực mà tổ chức và công dân đang có nhu cầu bức xúc. Đây là nhận thức mới, được hình thành qua quá trình cải cách, được chính bộ máy hành chính tiếp nhận để điều chỉnh nguyên tắc hoạt động của mình.
- Hai là: Về tổ chức và cán bộ: Để thực hiện có kết quả công cuộc CCHC, yếu tố quyết định hàng đầu chính là tổ chức bộ máy và cán bộ công chức, bởi vậy hệ thống bộ máy hành chính phải được tổ chức, sắp xếp hợp lý, gọn nhẹ, cán bộ công chức cần thường xuyên được đào tạo nâng cao trình độ lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và thật sự tâm huyết với công việc, luôn xem nhu cầu của tổ chức và công dân như nhu cầu của chính mình.
- Ba là: Phân định rành mạch giữa chức năng quản lý hành chính nhà nước với chức năng quản lý điều hành sản xuất - kinh doanh và hoạt động sự nghiệp. Việc tách bạch các chức năng quản lý, trước hết tạo điều kiện cho các cơ quan hành chính nhà nước nâng cao hơn nữa năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước theo pháp luật, mặt khác, hạn chế tình trạng can thiệp trực tiếp vào hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp, đồng thời giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về hiệu quả sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp và các đơn vị sự nghiệp.
- Bốn là: Đẩy mạnh phân công, phân cấp: Một nguyên tắc được đặt ra trong quá trình CCHC là việc gì mà cấp nào, ngành nào làm tốt thì cấp trên phân
cấp hoặc uỷ quyền cho cấp đó, ngành đó làm. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện phải có sự đồng bộ cả về nhiệm vụ, thẩm quyền, nguồn lực và các điều kiện cần thiết để đơn vị nhận phân cấp chủ động tổ chức thực hiện, mặt khác phải phân định thật cụ thể chức năng, nhiệm vụ giữa các ngành, các cấp tránh chồng chéo hoặc bỏ sót việc, đồng thời cũng cần xác định rò mối quan hệ trách nhiệm giữa các ngành, các cấp sau phân cấp, để tạo sự phối hợp đồng bộ liên thông trong triển khai thực hiện nhiệm vụ.
Có thể bạn quan tâm!
- Phân Loại Và Đặc Điểm Các Thủ Tục Hành Chính
- Ý Nghĩa, Vai Trò Của Cải Cách Thủ Tục Hành Chính
- Cải cách thủ tục hành chính qua thực tiễn của Thủ đô Hà Nội - 5
- Bố Trí Các Nguồn Lực, Ứng Dụng Khoa Học, Kỹ Thuật Và Công Nghệ Thông Tin Phục Vụ Công Tác Cải Cách Tthc
- Tập Hợp, Thống Kê, Rà Soát Đơn Giản Hóa Tthc Trước Khi Thực Hiện Đề Án 30
- Cơ Chế Một Cửa Trong Giải Quyết Thủ Tục Hành Chính
Xem toàn bộ 138 trang tài liệu này.
- Năm là: Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và phục vụ nhân dân: Vấn đề thiết lập các hệ thống thông tin phục vụ quản lý hành chính nhà nước và cung cấp các dịch vụ cho tổ chức và công dân là một hướng đi đúng đắn, nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương. Đây chính là cơ sở tạo ra phương thức hoạt động mới; yêu cầu về tính hệ thống, thông suốt, chính xác, rò ràng minh bạch từ các hệ thống thông tin sẽ tác động làm thay đổi phương pháp tiếp cận và phương thức tổ chức thực hiện các mục tiêu quản lý, điều hành của bộ máy hành chính.
- Sáu là: Có sự chỉ đạo sâu sát của các Cấp ủy Đảng, nhân tố quyết định sự thành công của tiến trình CCHC ở TP. Hồ Chí Minh: Mọi chủ trương, đường lối CCHC của Đảng và Nhà nước đều được Đảng bộ thành phố nghiên cứu, quán triệt kịp thời và đầy đủ, trên cơ sở đó đưa ra những biện pháp, bước đi phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của thành phố. Đảng bộ thành phố đã thể hiện tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám đi tiên phong trong CCHC, dám chịu trách nhiệm trước Đảng và trước nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, TP. Hồ Chí Minh đã tạo được những mô hình cải cách hành chính có hiệu quả, được các địa phương trong cả nước học tập, vận dụng có hiệu quả.
Chương 2
THỰC TRẠNG CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH CỦA THỦ ĐÔ HÀ NỘI
2.1. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG THỂ CHẾ VÀ KẾ HOẠCH CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH CỦA THỦ ĐÔ HÀ NỘI
Công tác cải cách hành chính luôn được Thành phố Hà Nội xác định là nhiệm vụ trọng tâm, trong đó, cải cách thủ tục hành chính và công tác cán bộ là hai khâu đột phá nhằm mục tiêu xây dựng bộ máy hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực, đáp ứng yêu cầu phát triển, xây dựng và quản lý Thủ đô, thể hiện rò nét tính chất phục vụ của bộ máy hành chính của dân, do dân, vì dân.
Trong những năm qua, Thành phố Hà Nội đã cơ bản thực hiện một cách bài bản và đầy đủ các nội dung Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 – 2010 (ban hành kèm theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg Ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ), Chương trình tổng thể CCHC nhà nước giai đoạn 2011-2020 (ban hành kèm theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP của Chính phủ ngày 8 tháng 11 năm 2011).
2.1.1. Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch
Hàng năm, từ Thành phố đến cơ sở đều xây dựng, triển khai kế hoạch thực hiện CCHC. Công tác CCHC là một trọng những nội dung trong tâm trong giao ban định kỳ của UBND Thành phố; các sở, ban, ngành, UBND cấp huyện, cấp xã.
Giai đoạn từ năm 2001 - trước tháng 8/2008, Thành phố Hà Nội và Tỉnh Hà Tây đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện Chương trình cải cách tổng thể nền hành chính Nhà nước trong phạm vi địa phương quản lý (xem thêm Phụ lục 1).
Công tác cải cách TTHC được triển khai trên các nội dung chủ yếu: cải cách
thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh vực, bảo đảm tính pháp lý, hiệu lực, hiệu quả, minh bạch, công bằng, công khai trong giải quyết công việc hành chính. Nâng cao chất lượng giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa.
Việc mở rộng địa giới hành chính Thủ đô Hà Nôi theo Nghị quyết 15/2008/NQ-QH12 ngày 29/5/2008 của Quốc hội không chỉ tạo ra quy mô, vị thế và điều kiện phát triển mới cho Thủ đô mà còn tác động không nhỏ tới công tác CCHC.
Trước ngày 01/8/2008, thành phố Hà Nội có diện tích đất tự nhiên là 927,39km2, với dân số hơn 3 triệu người; có 14 đơn vị hành chính cấp huyện (09 quận, 5huyện ngoại thành), có 232 đơn vị hành chính cấp xã (128 phường, 98 xã, 06 thị trấn); từ ngày 01/8/2008. Thực hiện Nghị quyết 15 của Quốc hội về mở rộng địa giới hành chính Thủ đô, thành phố Hà Nội có diện tích 3.344,7 km2, dân số khoảng 6,5 triệu người; 29 đơn vị hành chính cấp huyện (10 quận, 01 thị xã và 18 huyện); 577 đơn vị hành chính cấp xã (401 xã, 154 phường và 22 thị trấn); có 20 sở, ban, ngành, thuộc thành phố và 08 cơ quan tương đương sở thuộc ngành dọc cấp trên, đóng trên địa bàn thành phố. Quá trình hợp nhất các cơ quan chuyên môn có cùng chức năng và cơ cấu tổ chức bộ máy của thành phố Hà Nội (cũ) và tỉnh Hà Tây đã gặp một số khó khăn: cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện có sự khác nhau; số lượng đơn vị hành chính huyện, xã nhiều hơn đơn vị hành chính quận, phường; đội ngũ cán bộ, công chức đông hơn; phương pháp làm việc, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ có sự khác nhau, đặc biệt là đội ngũ cán bộ công chức cấp xã, tỷ lệ cán bộ chưa đạt chuẩn tăng lên. Trụ sở làm việc của các sở, ban, ngành thành phố còn nhiều khó khăn, địa điểm phân tán, địa bàn quản lý rộng, giao thông không thuận tiện, gây ảnh hưởng tới việc đi lại và giao dịch của các tổ chức và công dân.
Tiếp tục xác định cải cách hành chính là nhiệm vụ trọng tâm, cải cách TTHC và công tác cán bộ là hai khâu đột phá. Thành phố chỉ đạo quyết liệt các ngành các cấp tập trung triển khai triển khai đồng bộ, thống nhất các nội dung cải cách hành chính. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chương trình hành động số 25-CTr/TU ngày 24/10/2007 của Thành ủy "về đẩy mạnh CCHC , góp phần nâng
cao hiệu lực hiêu
quả quản lý của bô ̣máy nhà nước " trên toàn địa bàn Thành
phố; Triển khai đồng bộ cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông áp dụng bắt buộc đến tất cả các cơ quan hành chính; Thực hiện Đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính của Chính phủ; đồng thời, chỉ đạo các ngành, UBND quận, huyện đầu tư, nâng cấp công nghệ thông tin cho bộ phận tiếp nhận và trả kết quả tại bộ phận một cửa nhằm nâng cao chất lượng phục vụ cho tổ chức và công dân, quan tâm công tác tập huấn nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ làm tại bộ phận một cửa và cán bộ làm công tác tham mưu thực hiện cải cách hành chính; Kết hợp tăng cường công tác kiểm tra việc tổ chức thực hiện CCHC.
UBND Thành phố đã ban hành Kế hoạch số 171/KH-UBND ngày 13/12/2012 về công tác CCHC năm 2013[11], trong đó giao trách nhiệm cụ thể cho các sở, ban, ngành, UBND các quận, huyện, thị xã; xác định rò 30 nhiệm vụ, đề án được giao thực hiện trong năm 2013. Trên cơ sở Kế hoạch CCHC của UBND Thành phố, các sở, ban, ngành, UBND các quận, huyện, thị xã đã cụ thể hóa, xây dựng và triển khai thực hiện các nội dung CCHC năm 2013.
Ngay từ đầu năm, Chủ tịch UBND Thành phố ban hành Chỉ thị số 01/CT- UBND ngày 04/01/2013 về việc thực hiện “Năm kỷ cương hành chính – 2013”[7], nhằm đổi mới công tác điều hành, chấn chỉnh lề lối làm việc,tạo bước chuyển mạnh về kỷ cương hành chính, nâng cao ý thức trách nhiệm phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Thành ủy, HĐND, UBND Thành phố đã tổ chức Hội nghị giao ban quý I năm 2013 về công tác CCHC với lãnh đạo các sở, ban, ngành, các quận, huyện, thị xã, trong đó tập trung đánh giá tình hình thực hiện công tác CCHC của Thành phố, đặc biệt là vấn đề phân cấp mối quan hệ xử lý công việc giữa cấp và ngành, giữa chính quyền cấp trên và cơ sở; những giải pháp nâng cao ý thức trách nhiệm và chất lượng phục vụ của đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp giải quyết TTHC, thực hiện “ Năm kỷ cương hành chính - 2013”.
Ban Chỉ đạo Chương trình số 08-CTr/TU tổ chức giao ban quý I, quý II năm 2013 nhằm đánh giá kết quả hoạt động của Ban Chỉ đạo và đề ra nhiệm vụ CCHC
trong thời gian tới; thông báo kết quả điều tra xã hội về thái độ, trách nhiệm thực thi công vụ của cán bộ, công chức tại 05 sở (Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Tài nguyên và Môi trường, Quy hoạch và Kiến trúc, Xây dựng) và đánh giá tiến độ thực hiện các nhiệm vụ, đề án giao cho các sở, ngành thực hiện.
Ngày 18/7/2013, Ban Chỉ đạo Chương trình đã ban hành Kế hoạch số 121- KH/BCĐ để đánh giá việc lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của cấp ủy đảng trong việc quán triệt, triển khai thực hiện Chương trình số 08-CT/TU; chuẩn bị sơ kết giữa nhiệm kỳ Chương trình số 08-Ctr/TU.
UBND Thành phố đã ban hành và triển khai Kế hoạch số 69/KH-UBND ngày 24/4/2013 về việc triển khai việc tự đánh giá, chấm điểm để xác định Chỉ số CCHC thành phố Hà Nội năm 2012[29], đảm bảo đúng tiến độ và yêu cầu của Bộ Nội vụ; ban hành Quyết định số 3515/QĐ-UBND ngày 05/6/2013 về việc thành lập Ban Chỉ đạo đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức của thành phố Hà Nội giai đoạn 2013-2015[22].
2.1.2. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phục vụ cải cách thủ tục hành chính
Các thủ tục hành chính thường được quy định tại các văn bản dưới luật của cơ quan hành pháp và hành chính. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND, UBND cho phép UBND các cấp được ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Văn bản quy phạm pháp luật của nhiều cơ quan, từ Chính phủ, các bộ, đến UBND các cấp đều có khả năng chứa các nội dung về thủ tục hành chính.
Thành phố quán triệt kỹ về thẩm quyền ban hành thủ tục hành chính, yêu cầu các sở, ban, ngành, UBND cấp huyện, cấp xã không ban hành thủ tục hành chính nên đã hạn chế và loại bỏ tình trạng ban hành thủ tục hành chính trái thẩm quyền ở địa phương.
UBND Thành phố đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền nhằm cụ thể hóa, để tổ chức thực hiện các quy định pháp luật về đất đai, nhà ở, xây dựng nhà ở trên địa bàn Thành phố, như:
Quyết định số 68/1999/QĐ-UB ngày 18/08/1999 về việc ban hành quy định
về thủ tục giao đất, thuê đất; Quyết định số 68/2006/QĐ-UBND ngày 15/05/2006 ban hành quy định giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất trên địa bàn thành phố; Quyết định số 136/2007/QĐ-UBND ngày 30/11/2007 [17], ban hành quy định giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư và làm nhà ở giãn dân nông thôn trên địa bàn thành phố …vv...
Quyết định số 108/2009/QĐ-UBND ngày 29/09/2009 quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội; Quyết định số 217/2006/QĐ-UBND, số 14/2009/QĐ-UBND, số 73/2009/QĐ- UBND [19]…vv…
Quyết định số 100/QĐ-UB ngày 16/7/2002 ban hành Quy định về quy trình và thời hạn giải quyết một số thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý đầu tư và xây dựng; Quyết định số 217/2006/QĐ-UBND ngày 06/12/2006 ban hành Quy định về liên thông giải quyết một số TTHC trong quản lý các dự án đầu tư và xây dựng trên địa bàn thành phố Quyết định số 15/2007/QĐ-UBND ngày 23/01/2007 ban hành Quy định về đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư dự án có sử dụng đất trên địa bàn thành phố Hà Nội; Quyết định số 22/2007/QĐ-UBND ngày 09/02/2007 ban hành Quy định về Quy trình giải quyết một số TTHC trong quản lý các dự án đầu tư xây dựng trên địa bàn thành phố Hà Nội…vv…[16].
2.2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH CỦA THỦ ĐÔ HÀ NỘI
2.2.1. Tuyên truyền, phổ biến về cải cách thủ tục hành chính
Nhận thức vai trò, ý nghĩa của việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TTHC và cải cách TTHC , trên cơ sở các chỉ thị , nghị quyết của Trung ương và Thành ủy về công tác cải cách hành chính , Thành phố Hà Nội , Hà Tây đã tổ chức quán triệt và chỉ đạo đến các cấp ủy đảng, thủ trưởng cơ quan, đơn vị trên địa bàn triển khai công tác tuyên truyền , phổ biến. Các sở, ban, ngành Thành phố, các cấp chính quyền địa phương từ huyện tới xã đều xây dựng, triển khai kế hoạch và tổ
chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về TTHC và cải cách TTHC nhằm nâng cao nhận thức của các cán bộ, công chức, viên chức và người dân, doanh nghiệp.