Cơ Hội Và Thách Thức Của Ngành Thủy Sản Trong Bối Cảnh Hội Nhập


khẩu quan trọng của Việt Nam, là phương tiện có hiệu quả để tích lũy vốn, giúp đảm bảo chủ quyền quốc gia, an ninh quốc phòng.

2.1.5. Cơ hội và thách thức của ngành thủy sản trong bối cảnh hội nhập

2.1.5.1. Cơ hội

Chính thức trở thành thành viên của TPP đã mở ra bước ngoặc đáng kể cho ngành thủy sản Việt Nam. Vì khi đó thuế nhập khẩu của các nước thành viên TPP sẽ giảm xuống 0%, lợi ích mà TPP mang lại là rất lớn cho việc xuất – nhập khẩu của Việt Nam. Khi tham gia TPP, ngành thủy sản Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội để giải quyết các tranh chấp về chống bán phá giá tôm và cá tra, chống trợ cấp, chương trình giám sát cá da trơn ở Mỹ được công bằng hơn; giúp tăng sức cạnh tranh của nhiều mặt hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Nhật Bản, trong đó mặt hàng tôm có khả năng cạnh tranh cao nhất. Ngoài ra, ngành thủy sản Việt Nam còn có được thuận lợi hơn trong nhập khẩu nguyên liệu cá ngừ để phục vụ chế biến xuất khẩu, giúp Việt Nam tăng khả năng cạnh tranh cũng như đẩy mạnh xuất khẩu cá ngừ; tăng khả năng cạnh tranh về giá với các đối thủ (Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia) xuất khẩu sang các nước thành viên TPP. Đặc biệt là mặt hàng tôm xuất khẩu sang Nhật Bản và mặt hàng cá ngừ trước 2 đối thủ Thái Lan và Philippines. Mặc khác khi tham gia TPP vấn đề về chất lượng của ngành thủy sản cũng được gia tăng do sự cạnh tranh về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm.

2.1.5.2. Thách thức

Bên cạnh nhưng cơ hội, TPP cũng mang lại nhiều thách thức cho ngành thủy sản Việt Nam phải kể đến đó là sự bảo hộ thương mại tức là sự cạnh tranh về giá thành các mặt hàng mà Việt Nam xuất khẩu, quy tắc xuất xứ, quy mô, chất lượng và nguồn nhân lực phục vụ cho sản xuất chưa thể sánh kịp với các nước thành viên khác trong TPP. Đặc biệt là khi gỡ bỏ hàng rào thuế quan, ngành thủy sản Việt Nam cần phải đối mặt với những hàng rào phi thuế quan khác dựng lên nhằm bảo hộ sản xuất thủy sản trong nước như yêu cầu về an toàn thực phẩm ngày càng khắt khe hơn, hay sự kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp, các quy định kiểm tra hóa chất, kháng sinh,… đây cũng chính là trở ngại lớn nhất đối với xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới. Nếu muốn ngành thủy sản Việt Nam phát triển và cạnh tranh được với các nước khác thì buộc nhà nước cũng như các doanh nghiệp ngành thủy sản Việt Nam phải khắc phục điểm yếu, sử dụng thế mạnh để đón đầu thách thức.


2.2. Các khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu

2.2.1. Định nghĩa, ý nghĩa

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 70 trang tài liệu này.

Thanh khoản là khả năng tiếp cận các tài sản hoặc nguồn vốn có thể dùng để chi trả với chi phí hợp lý ngay khi nhu cầu vốn phát sinh. Thanh khoản đại diện cho khả năng thực hiện tất cả các nghĩa vụ thanh toán khi đến hạn. Do thực hiện bằng tiền mặt, thanh khoản chỉ liên quan đến các dòng lưu chuyển tiền tệ, việc không thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán sẽ dẫn đến tình trạng thiếu thanh khoản.

Thanh khoản rất quan trọng trong phân tích báo cáo tài chính vì thanh khoản chính là số tiền hoặc các khoản tương đương tiền mà một công ty đang nắm giữ hoặc các tài sản mà công ty có thể chuyển đổi thành tiền trong một thời gian ngắn.

Các yếu tố tác động đến tính thanh khoản của các doanh nghiệp ngành thủy sản - 4

Thanh khoản cũng liên quan đến khả năng một công ty thực hiện các nghĩa vụ của mình khi đến hạn. Nhiều công ty có hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh tốt cũng có thể rơi vào những khó khăn nghiêm trọng do tính thanh khoản. Một nguồn vốn được coi là có tính thanh khoản cao khi chi phí huy động vốn thấp và thời gian thu hồi vốn nhanh và một tài sản được gọi là có tính thanh khoản cao khi đáp ứng được các chỉ tiêu sau: có sẳn lượng để mua hoặc bán (the right amount id available); có sẵn thị trường giao dịch (at the right location); có sẵn thời gian giao dịch (at the right time) và giá cả hợp lý (at the right price).

Khả năng thanh khoản là tỷ số đo lường khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của công ty. Các tỷ số thường được dùng để đánh giá khả năng thanh khoản là: tỷ số thanh toán hiện hành (current ratio), tỷ số thanh toán nhanh (quick ratio), tỷ lệ tiền mặt (cash ratio). Tầm quan trọng của khả năng thanh khoản được đánh giá bằng việc xem xét hậu quả khi công ty không có khả năng thanh toán nợ trong ngắn hạn (Nguyễn Minh Kiều, 2012).

Việc thiếu khả năng thanh khoản làm cho công ty mất đi cơ hội nhận được các khoản chiết khấu ưu đãi hay cơ hội kiếm thêm lợi nhuận. Đồng thời, thanh khoản gặp khó khăn cũng khiến cho khả năng điều hành bị hạn chế. Việc mất khả năng thanh khoản còn có thể dẫn đến việc công ty phải bán đi các dự án đầu tư, tài sản, huy động vốn với chi phí cao và tình trạng xấu nhất là phá sản. Bên cạnh đó, thanh khoản giúp doanh nghiệp linh hoạt và có được các lợi thế khi điều kiện thị trường thay đổi và ứng phó được với những chiến lược của các công ty cạnh tranh (Brigham và Houston, 2003).

Tuy nhiên một số nghiên cứu khác lại cho rằng thuật ngữ "tính thanh khoản" có thể được hiểu theo 3 cách. Thứ nhất, dùng để chỉ khả năng chuyển


thành tiền của tài sản nhằm trang trải các khoản nợ và nghĩa vụ ngắn hạn. Để làm được việc này, doanh nghiệp cần phải sở hữu các tài sản có tính thanh khoản, đó là tiền mặt và tương đương tiền (bao gồm, cổ phiếu blue-chip và các chứng khoán trên thị trường tiền tệ ví dụ trái phiếu chính phủ). Các tài sản có tính thanh khoản phải đảm bảo có thể được mua bán trên thị trường nhanh chóng mà không ảnh hưởng đến giá cả, tức là giá giao dịch không bị chênh lệch quá nhiều so với giá gốc. Tất nhiên, các nhà đầu tư yêu thích đầu tư vào các tài sản có tính thanh khoản cao vì họ có thể dễ dàng rút khỏi vụ đầu tư và lấy lại khoản đầu tư của mình (kèm theo cả lãi hoặc nếu là lỗ thì số tiền bị mất cũng không đáng kể). Thứ hai, tính thanh khoản chỉ khả năng trả nợ của doanh nghiệp khi đến hạn. Và, thứ ba, tính thanh khoản liên quan đến khả năng vận hành trơn tru của thị trường xét về khía cạnh các giao dịch mua và bán.

Như Crockett (2008) định nghĩa thực nghiệm về vai trò của tính thanh khoản: “Tính thanh khoản dễ nhận ra hơn là định nghĩa nó”. Định nghĩa thanh khoản mang tính trừu tượng và đòi hỏi sự tư duy cao. Theo dòng lịch sử, thanh khoản đã song hành với sự phát triển của khái niệm tiền tệ và đã thay đổi theo quá trình mở rộng tài chính, trong một phạm vi rộng hơn, nó thay đổi theo sự cải tiến trong cấu trúc và chức năng của hệ thống tài chính. Trong phần này chúng ta sẽ cùng điểm qua những định nghĩa và khái niệm mà các nhà kinh tế học đã đưa ra về tính thanh khoản và qua đó cũng chứng minh một điều rằng, tính thanh khoản ngày nay đã phát triển phức tạp hơn rất nhiều.

Lý thuyết tài chính cho rằng, với những bất hoàn hảo của thị trường vốn, dịch chuyển nguồn vốn giữa những thành phần kinh tế trong một khoảng thời gian yêu cầu một lượng tài sản tài chính phi rủi ro thích hợp trong nền kinh tế: để lưu giữ giá trị và là công cụ trao đổi được đông đảo những người tham gia trên thị trường chấp nhận. Đó chính là định nghĩa tiền giấy hay tiền pháp định, tiền vừa đảm nhiệm chức năng là đơn vị hạch toán, vừa giữ chức năng là trung gian trao đổi. Ở đây, chúng tôi muốn đề cập đến một dạng thanh khoản truyền thống và đơn sơ nhất là thanh khoản tài sản.

Khái niệm này có thể nói là quen thuộc và được chấp nhận phổ biến nhất “Tiền là tài sản có tính thanh khoản cao nhất nên tiền cũng được lựa chọn làm thước đo cho khả năng thanh khoản của các tài sản khác”.

Lý thuyết tài chính cũng lý giải vai trò của các ngân hàng thương mại như là những nhà cung cấp tính thanh khoản: bởi chức năng trợ cấp những khoản vay hoặc nắm giữ những chứng khoán nợ sơ cấp được phát hành bởi các thành phần kinh tế có nhu cầu được cung cấp thêm vốn, bởi chức năng tập trung nguồn vốn từ những nhà đầu tư bằng cách phát hành “chứng khoán nợ gián tiếp”. Do sự phát


triển lớn mạnh và nhất là những đặc tính trong hợp đồng của các chứng khoán nợ này, chúng được cân nhắc và chấp nhận chung như là một sự thay thế, trong hầu hết các mối quan hệ, cho cơ sở tiền tệ hợp pháp. Điều này đã dẫn dắt đến định nghĩa của khái niệm thanh khoản ngân hàng, thanh khoản ngân hàng bao gồm cả khả năng ngay lập tức của ngân hàng và tính thanh khoản được cung cấp từ phát hành dòng tín dụng.

Rủi ro thanh khoản ngân hàng vì thế liên kết cả với khả năng đáp ứng nghĩa vụ của ngân hàng đối với người gửi tiền ở ngân hàng họ cũng như việc chuyển tiền gửi thành tiền mặt khi cần thiết (bằng cách rút bớt “drawing-down” dòng tín dụng) và chức năng duy trì sự cân bằng giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra. Những dòng tiền này được quản lý dưới sự điều hành và kiểm soát của ngân hàng trung ương, nó bảo đảm tính có sẵn của cơ sở tiền tệ cần thiết để giữ vững sự phát triển của tiền ngân hàng. Ngân hàng trung ương cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra và làm mạnh thêm cơ sở hạ tầng cần thiết để ổn định hệ thống tài chính.

Trong suốt những thập niên gần đây, sự phát triển nhanh chóng của thị trường tài chính, đặc biệt là sự trưởng thành trong vai trò của thị trường chứng khoán thứ cấp đã tạo nên sự mở rộng hình ảnh của tài sản tài chính, bao gồm cả định nghĩa của thanh khoản. Do đó, chúng ta đang chứng kiến sự tiếp nhận một khái niệm mới là thanh khoản thị trường, mức độ thanh khoản này được định trên cơ sở một số đặc điểm hoạt động liên quan đến thị trường chứng khoán như sau (Bervas, 2006):

o Chi phí giao dịch được đo lường bởi thời gian chào bán – mua của giao dịch chứng khoán.

o Chiều sâu thị trường, tức là khối lượng giao dịch có thể thực hiện ngay lập tức mà không có sự thay đổi của giá giới hạn.

o Khả năng hồi phục của thị trường, nghĩa là tốc độ mà giá cả có thể trở lại trạng thái cân bằng của nó sau một cú sốc ngẫu nhiên trong dòng giao dịch.

Những đặc điểm đã kể trên của thanh khoản thị trường được thể hiện đầy đủ trong những thị trường có tổ chức, nơi giao dịch những tài sản tài chính đúng chuẩn được phát hành rộng rãi, nơi đảm bảo sự công bằng cho nhà đầu tư, hứa hẹn cung cấp cho họ những thông tin chính xác về tài sản giao dịch và nhà phát hành.

Định nghĩa thanh khoản thị trường nhấn mạnh rò ràng sự thay đổi đã diễn ra trong rủi ro thanh khoản, giờ đây rủi ro thanh khoản còn liên hệ chặt chẽ với


khả năng xây dựng quỹ tiền tệ theo mong muốn của các nhà đầu tư tổ chức cũng như cá nhân, những người tham gia trên thị trường tài chính nói chung luôn có thể điều chỉnh quỹ tiền tệ của mình bằng cách bán tài sản tài chính đang có trong danh mục hoặc phát hành thêm công cụ tài chính mới (hoặc kết hợp cả hai). Những thay đổi trong dòng tiền liên quan đến việc mua bán tài sản tài chính này có khi sẽ làm nguy hại đến tổng tài sản tài chính, giá trị đạt được thực tế khác với giá trị kỳ vọng: rủi ro thanh khoản quỹ. Đây là một dạng rủi ro có quan hệ mật thiết với rủi ro thanh khoản thị trường và được các nhà đầu tư rất quan tâm.

Vậy đến đây, chúng ta có thể nhìn thấy sự mở rộng khái niệm thanh khoản diễn ra đến mức độ nào? Sự phát triển nhanh chóng của hệ thống tài chính đã hỗ trợ cho việc chứng khoán hóa những tài sản tài chính không được giao dịch chính thức, chẳng hạn như những khoản vay ngân hàng, điều đó đã dẫn đến sự kỳ vọng của những cá nhân và tổ chức tham gia trên thị trường rằng họ có thể trang trải nhu cầu thanh khoản của mình bằng cách tạo nên những tài sản tài chính mới, hoặc sắp xếp những tài sản tài chính họ đang nắm giữ. Khả năng chuyển giao tài sản được cân nhắc như là tương đương với khả năng bán tài sản, chuyển nó thành tiền, một cách nhanh chóng tại mức chi phí giao dịch thấp và một mức ảnh hưởng không đáng kể lên giá cả của tài sản đó.

Trong quan điểm của những người tham gia trên thị trường, thanh khoản không còn giới hạn trong cơ sở tiền tệ và những khoản tiền gửi ngay lập tức của ngân hàng, mà còn bao gồm thị trường tài chính trong tổng số. Do đó định nghĩa theo Tirole (2008) “một tài sản cung cấp tính thanh khoản cho thế giới nếu nó có thể được sử dụng như là một tấm đệm nhằm đáp ứng các nhu cầu” giờ đây đang được biểu hiện bởi một tập hợp tín dụng/tiền tệ rộng hơn và theo một vài tác giả (Adrian và Shin, 2007), tính thanh khoản thực sự gồm tất cả tài sản trong bảng cân đối của các trung gian tài chính.

2.2.2. Các yếu tố cấu thành nên thanh khoản doanh nghiệp

Dựa trên một số nghiên cứu và các tài liệu có liên quan có thể rút ra kết luận rằng các yếu tố cấu thành nên thanh khoản của doanh nghiệp bao gồm tài sản ngắn hạn (TSNH) và tài sản dài hạn (TSDH).




Tài sản ngắn hạn

1. Tiền

2. Các khoản phải thu

3. Hàng tồn kho

4. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn

5. Tài sản ngắn hạn khác


Tài sản dài hạn

1. Các khoản phải thu dài hạn

2. Tài sản cố định

3. Bất động sản đầu tư

4. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn

5. Tài sản dài hạn khác



Nguồn: Brigham và Houston, (2003)

Tài sản ngắn hạn là tiền, các khoản tương đương tiền và các tài sản có thể chuyển đổi thành tiền hoặc có thể bán hay sử dụng trong vòng một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh bình thường của một doanh nghiệp. Tài sản ngắn hạn phản ánh tổng giá trị tiền, các khoản tương đương tiền và các tài sản ngắn hạn khác có đến thời điểm báo cáo, bao gồm: tiền, các khoản tương đương tiền, các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu, hàng tồn kho và các tài sản ngắn hạn khác.

(1) Tiền: là một bộ phận tài sản ngắn hạn tồn tại dưới hình thái tiền tệ bao gồm: tiền mặt tại quỹ (là số tiền mà doanh nghiệp đang giữ tại quỹ của mình như tiền Việt Nam, ngân phiếu, các loại chứng từ, tín phiếu có giá trị, vàng bạc, kim khí quý, đá quý,…), tiền gửi ngân hàng (là số tiền có trên tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp tại ngân hàng, kho bạc Nhà nước, công ty tài chính như tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý,…), tiền đang chuyển (là số tiền mà doanh nghiệp đã nộp vào ngân hàng hay đã gửi qua đường bưu điện, đang làm thủ tục trích chuyển từ tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp sang tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp khác mà doanh nghiệp chưa nhận được giấy thông báo


Có của ngân hàng). Các khoản tương đương tiền, là các khoản đầu tư ngắn hạn và có tính thanh khoản cao định kỳ chuyển sang tiền mặt và vì thế khi đến gần kỳ hạn thanh toán chúng có rủi ro do thay đổi giá cả khi lãi suất biến động. Các đầu tư này thường có kỳ hạn 3 tháng hoặc ít hơn.

(2) Các khoản phải thu: là toàn bộ các khoản mà doanh nghiệp có nghĩa vụ phải thu từ các đối tượng khác bao gồm: phải thu từ khách hàng, phải thu nội bộ, các khoản cầm cố, thế chấp, ký quỹ,… hay có thể nói các khoản phải thu dùng để phản ánh các khoản nợ phải thu và tình hình thanh toán các khoản nợ phải thu phát sinh trong quá trình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp.

(3) Hàng tồn kho: hàng tồn kho ở doanh nghiệp thường là những tài sản hữu hình thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp được sử dụng vào sản xuất kinh doanh hoặc thực hiện các thương vụ, dịch vụ, hàng hóa để gửi bán hoặc gửi đi bán trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp, hàng tồn kho thường bao gồm: nguyên liệu, vật liệu chính, vật liệu phụ, công cụ lao động, vật liệu đóng gói bao bì, thành phẩm, sản phẩm dỡ dang,… Việc xem xét hàng tồn kho là một việc rất cần thiết bởi hiện tại hàng tồn kho là một thành phần ảnh hưởng rất lớn đến việc xác định thu nhập của một doanh nghiệp.

(4) Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn: là các khoản đầu tư của doanh nghiệp ra bên ngoài được thực hiện dưới hình thức cho vay, cho thuê, góp vốn liên doanh, mua bán chứng khoán (trái phiếu, cổ phiếu, tín phiếu,…) có thời hạn sử dụng, thu hồi vốn không quá một năm.

(5) Tài sản ngắn hạn khác: là các tài sản không thuộc các loại tài sản trên, tài sản ngắn hạn khác ở đây bao gồm: chi phí trả trước ngắn hạn, thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, thuế và các khoản phải thu của Nhà nước, tài sản ngắn hạn khác.

Tài sản dài hạn là tất cả các tài sản không nằm trong danh mục tài sản ngắn hạn. Tài sản dài hạn phản ánh tổng giá trị các khoản phải thu dài hạn, tài sản cố định, bất động sản đầu tư và các tài sản dài hạn khác có đến thời điểm báo cáo bao gồm: các khoản phải thu dài hạn, tài sản cố định, bất động sản đầu tư, các khoản đầu tư tài chính dài hạn và tài sản dài hạn khác.

(1) Các khoản phải thu dài hạn: là các khoản phải thu dài hạn khách hàng, phải thu nội bộ dài hạn và các khoản phải thu dài hạn khác có thời gian thu hồi hoặc thanh toán trên một năm.

(2) Tài sản cố định: là những tài sản có giá trị lớn, có thời gian sử dụng dài phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như thương mại, dịch vụ,… để tạo ra doanh thu và dòng tiền trên một năm.


(3) Bất động sản đầu tư: là những bất động sản như quyền sử dụng đất, nhà hoặc một phần của nhà hoặc cả nhà và đất, cơ sở hạ tầng do người chủ sở hữu hoặc người đi thuê tài sản theo hợp đồng thuê tài chính nắm giữ nhằm mục đích thu lợi từ việc cho thuê hoặc chờ tăng giá mà không phải để sử dụng trong sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ hay cho các mục đích quản lý hoặc bán trong kỳ hoạt động kinh doanh thông thường.

(4) Các khoản đầu tư tài chính dài hạn: là khoản đầu từ vào việc mua bán các chứng khoán có thời hạn thu hồi trên một năm hoặc góp vốn liên doanh bằng tiền, bằng hiện vật, mua cổ phiếu có thời gian thu hồi vốn trên một năm và các khoản đầu tư khác có thời hạn trên một năm.

(5) Tài sản dài hạn khác: là các tài sản không thuộc các loại tài sản trên, tài sản dài hạn khác bao gồm: chi phí trả trước dài hạn, tài sản thuế thu nhập hoãn lại và các tài sản dài hạn khác.

2.2.3. Đo lường thanh khoản công ty

Khả năng thanh toán của doanh nghiệp là năng lực về tài chính mà doanh nghiệp có được để đáp ứng nhu cầu thanh toán các khoản nợ cho các cá nhân, tổ chức có quan hệ cho doanh nghiệp vay hoặc nợ.

Năng lực tài chính đó tồn tại dưới dạng tiền tệ (tiền mặt, tiền gửi,…), các khoản phải thu từ các cá nhân mắc nợ doanh nghiệp, các tài sản có thể chuyển đổi nhanh thành tiền như: hàng hóa, thành phẩm, hàng gửi bán.

Các khoản nợ của doanh nghiệp có thể là các khoản vay ngân hàng, khoản nợ tiền hàng do xuất phát từ quan hệ mua bán các yếu tố đầu vào hoặc sản phẩm hàng hóa doanh nghiệp phải trả cho người bán hoặc người mua đặt trước, các khoản thuế chưa nộp ngân hàng nhà nước, các khoản chưa trả lương.

Các chỉ tiêu đo lường khả năng thanh toán của doanh nghiệp bao gồm:

- Khả năng thanh toán ngắn hạn (Current ratio)

- Khả năng thanh toán nhanh (Quick ratio)

- Khả năng thanh toán tức thời (Cash ratio)

Trong kinh doanh vấn đề làm cho các chủ doanh nghiệp lo ngại là các khoản nợ phải thu không có khả năng thu hồi, các khoản phải trả không có khả năng thanh toán. Vì vậy doanh nghiệp phải duy trì một mức vốn luân chuyển hợp lý để đáp ứng kịp thời các khoản nợ ngắn hạn, duy trì các loại hàng tồn kho để đảm bảo quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh thuận lợi. Tại các nước trên thế giới theo cơ chế thị trường căn cứ vào luật phá sản doanh nghiệp có thể bị tuyên

Xem tất cả 70 trang.

Ngày đăng: 18/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí