Thực Trạng Ngành Nuôi Trồng Thủy Sản Tỉnh Cà Mau


- Vùng Nam Cà Mau: Quy hoạch thủy lợi phục vụ chủ yếu cho nuôi tôm. Chia thành 18 tiểu vùng, với 323.786 ha. Hiện tỉnh đã phê duyệt 15/18 dự án đầu tư hệ thống thủy lợi, đang đầu tư cho 05 tiểu vùng.

- Vùng Bắc Cà Mau: Quy hoạch thủy lợi phục vụ sản xuất hệ sinh thái ngọt: Chia làm 05 tiểu vùng, với 206.214 ha. Hiện có 02 tiểu vùng được khép kín giữ ngọt triệt để (Tiểu vùng II và Tiểu vùng III thuộc huyện U Minh và Trần Văn Thời). Mặc dù chưa đầu tư hoàn thiện nhưng bước đầu đem lại hiệu quả khá tốt.

Thời gian qua, trên cơ sở quy hoạch được duyệt, tỉnh đã tập trung các nguồn lực để đầu tư hệ thống thủy lợi. Từ các nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, vốn hạ tầng thủy sản, vốn ODA,… tỉnh đã bố trí thực hiện các dự án để khép kín các tiểu vùng. Tuy nhiên, do nguồn kinh phí có hạn nên các dự án hầu hết chưa được đầu tư hoàn chỉnh, chưa có tiểu vùng nào được khép kín, chưa phát huy được hiệu quả. Ngoài ra còn tập trung nạo vét các kênh trục, kênh cấp 1, cấp 2 để phục vụ cho việc cấp, thoát nước.

Thủy lợi phục vụ nuôi tôm còn một số tồn tại: Không có hệ thống cấp, thoát nước riêng biệt; năng lực cấp, thoát nước rất hạn chế, nên việc ô nhiễm nguồn nước, lây lan dịch bệnh rất dễ xảy ra; các công trình thủy lợi phục vụ cho nuôi tôm chưa đồng bộ, chưa đảm bảo chủ động lấy nước để phục vụ sản xuất, thiếu nguồn nước ngọt bổ sung. Một số khu vực chưa phân ranh rõ ràng giữa vùng nuôi tôm và trồng lúa dẫn đến xung đột trong sản xuất; do tốc đô ̣ bồi lắng nhanh nên hê ̣ thống kênh

rach không thể đáp ứ ng nhu cầu cấp, thoát nước cho nuôi tôm rất khó khăn cho sản xuất, đặc biệt là tình trạng thiếu nước cho sản xuất ở những vùng nằm sâu trong nội đồng.

Giao thông

Giao thông bộ, có 3 tuyến quốc lộ đi qua, với tổng chiều dài 119,3 km, tỷ lệ nhựa hóa đạt 100%; 11 tuyến tỉnh lộ với tổng chiều dài là 267,9 km, tỷ lệ nhựa hóa đạt 98,1%; 97 tuyến đường huyện với tổng chiều dài là 976,4 km, tỷ lệ nhựa cứng hóa đạt 64,8%; 287 tuyến đường đô thị dài 228,9 km bao gồm các tuyến đường nội


ô thành phố Cà Mau và đường thị trấn đã được nhựa (cứng) hóa đạt 99,8%; đường giao thông nông thôn có 1.962 tuyến với tổng chiều dài 10.844,5 km, tỷ lệ cứng hóa đạt 35%.

Giao thông thủy: Hệ thống giao thông đường thủy khá phát triển. Vận tải đường thủy chiếm tỷ trọng lớn hơn so với đường bộ. Toàn tỉnh có 57 tuyến, dài 1.161,8km. Trong đó: 12 tuyến/261,7km do trung ương quản lý; 12 tuyến/349,0km do tỉnh quản lý; 33 tuyến/559,5km do huyện quản lý. Ngoài ra còn khoảng 7.000 km các tuyến sông, kênh có khả năng khai thác vận tải thủy, chủ yếu phục vụ vận chuyển nông sản hoặc hàng hóa nhỏ lẻ của người dân.

Tuy nhiên việc hạn chế vận tải bằng đường bộ cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến vận chuyển hàng hóa, kết nối giao thương, đi lại đối với các Doanh nghiệp và người dân. (Báo cáo tổng kết dự án Quy hoạch tài nguyên nước mặt tỉnh Cà Mau đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2045)

2.1.2. Thực trạng ngành nuôi trồng thủy sản tỉnh Cà Mau

Về sản xuất, cung ứng giống

Về năng lực sản xuất giống: Trong tỉnh có hơn 800 cơ sở sản xuất giống (chủ yếu tôm giống), sản xuất từ8-9 tỷ con giống/năm, đáp ứng khoảng 45% nhu cầu nuôi trong tỉnh, chủ yếu là tôm sú. Có hơn 80% là các cơ sở nhỏ lẻ, nằm phân tán tại các địa bàn, chủ yếu ở ba huyện Đầm Dơi, Năm Căn, Ngọc Hiển, điều kiện cơ sở không đáp ứng các quy định, rất khó khăn trong quản lý. Kỹ thuật viên có chuyên môn cao không nhiều (khoảng 20%), số còn lại chỉ được tập huấn ngắn hạn.Việc hạn chế về trình độ kỹ thuật đã ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng tôm giống sản xuất trong tỉnh.Tỉnh đã khuyến khích các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ liên kết thành hợp tác xã hoặc có thành lập doanh nghiệp có quy mô sản xuất lớn, áp dụng quy trình công nghệ hiện đại.Tuy nhiên đến nay số lượng cơ sở sản xuất quy mô lớn không nhiều. Hiện chỉ có Tập đoàn Việt Úc đầu tư khu sản xuất tôm giống với quy mô hơn 120 ha, công suất thiết kế hơn 14 tỷ con giống/năm, góp phần giải quyết


nhu cầu về giống trong tỉnh (hiện mới đi vào sản xuất giai đoạn I, công suất 7 tỷ con giống/năm).

Về di nhập giống: Trong 55% nhu cầu giống phục vụ cho nuôi trong tỉnh còn lại phải di nhập từ các tỉnh, chủ yếu là các tỉnh Miền Trung, khoảng 10-12 tỷ con giống/năm (khoảng 40% là tôm thẻ chân trắng). Có 220 cơ sở ương giống (gièo) để cung ứng cho các vùng nuôi, hàng năm đều được kiểm tra điều kiện kinh doanh. Công tác quản lý giống nhập tỉnh cũng gặp rất nhiều khó khăn, do địa bàn rộng, một số giống nhập nguồn gốc không rõ ràng, chất lượng không đảm bảo. Để quản lý nguồn giống nhập tỉnh có chất lượng tốt, hàng năm Sở Nông nghiệp và PTNT tổ chức ký kết phối hợp với các tỉnh về quản lý chất lượng giống, qua đó chất lượng giống cũng được cải thiện.

Về tôm sú giống bố mẹ: Cà Mau là nơi cung cấp tôm sú bố mẹ có chất lượng tốt cho các trung tâm sản xuất giống của cả nước, hàng năm có thể cung cấp từ

100.000 -150.000 con cho nhu cầu sản xuất trong và ngoài tỉnh. Nguồn tôm sú bố mẹ khai thác từ tự nhiên nên công tác kiểm dịch cũng gặp nhiều khó khăn và nguồn cung cũng có giới hạn, theo chiều hướng ngày càng giảm cả về số lượng và chất lượng.

Bảng 2.1: Kết quả sản xuất kinh doanh tôm giống giai đoạn 2013-2016

ĐVT: 1.000 con


TT

Nguồn giống

2013

2014

2015

2016

I

Sản xuất trong tỉnh

1

Tôm sú

8.500.000

7.223.110

7.830.492

7.643.253

2

Tôm thẻ chân trắng


53.795

524.815

373.002

3

Tôm thẻ đuôi đỏ


95.20

25.40

10.00

II

Nhập tỉnh

1

Tôm sú

10.000.000

8.134.280

8.927.496

8.774.821

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển ngành nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh Cà Mau - 3


2

Tôm thẻ chân trắng

3.000.000

5.771.200

5.165.100

4.512.786

3

Tôm càng xanh

15.460

27.480

86.664

95.082



21.515.460

21.209.960

22.534.592

21.398.954


Về vật tư phục vụ nuôi trồng thủy sản

Trong tỉnh có trên 200 cơ sở kinh doanh, dịch vụ thú y thủy sản, vừa cung cấp các sản phẩm phục vụ cho nuôi trồng thủy sản vừa tham gia tư vấn kỹ thuật cho người dân trong việc sử dụng các loại hóa chất, chế phẩm sinh học, quản lý môi trường, phòng ngừa dịch bệnh,…Hiện Cà Mau vẫn chưa có nhà máy sản xuất thức ăn, hóa chất, thuốc thú y phục vụ cho nuôi tôm, nên hoàn toàn phụ thuộc vào việc nhập sản phẩm từ các tỉnh về. Hiện thị phần chủ yếu nằm trong tay các doanh nghiệp lớn của nước ngoài như CP (Thái Lan); Grobest, Uni President (Đài Loan); Tongwei, Việt Hoa (Trung Quốc), Tomboy (Pháp)…vừa giá thành sản xuất tăng cao, vừa bị thao túng giá.

Về thủy sản

Trong những năm qua sản xuất thủy sản tăng cao, tổng sản lượng năm 2016 đạt 491.043 tấn, bình quân tăng 3,1%/năm (giai đoạn 2011-2016). Trong đó, sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt 282.043 tấn, bình quân tăng 1,7%/năm; sản lượng khai thác thủy sản đạt 209.000 tấn, bình quân tăng 5,3%/năm.

Cơ cấu chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng trong khai thác giảm dần, tăng mạnh tỷ trọng từ nuôi trồng; sự chuyển đổi trên chủ yếu do thị trường tác động, nguồn cung từ khai thác không đáp ứng đủ, trong khi đó nhu cầu tiêu dùng ngày một tăng lên đã kích thích lĩnh vực nuôi trồng phát triển.

Nuôi trồng Thuỷ sản là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh Cà Mau. Đến năm 2016, toàn tỉnh có 301.509 ha, trong đó có 278.642 ha nuôi tôm (chiếm khoảng 40% so cả nước) với nhiều loại hình và đối tượng nuôi như: Nuôi tôm thâm canh, bán thâm canh (9.590 ha), quảng canh cải tiến (94.469 ha), quảng canh, tôm lúa,


tôm rừng,…Đồng thời còn tận dụng diện tích để nuôi kết hợp, nuôi luân canh, xen canh một số đối tượng khác như nuôi cá kèo, cá chẽm, cua, sò huyết,…Đối với nuôi nước ngọt có nhiều đối tượng nuôi như: Cá chình, cá bống tượng, cá sặc rằn,… Ngoài ra, còn phát triển nuôi ven biển, bãi bồi, nuôi lồng bè các đối tượng như nghêu, sò huyết, hàu, cá bốp (nuôi lồng). Nuôi trồng thủy sản đã tạo công ăn việc làm trực tiếp cho khoảng 150.000 hộ với hơn 370.000 lao động, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất cho nông dân.

Bảng 2.2: Kết quả phát triển nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2012-2016



TT


Danh mục


ĐVT


2012


2013


2014


2015


2016

TL tăng trưởng BQ (%)


1

Diện tích NTTS

Ha


296.687


295.789


298.138


299.819


301.509


0,32


Trong đó tôm


Ha


266.735


266.228


268.500


280.2130


278.642


0,88


2


Năng suất

Tấn/ha

/năm


0,92


0,98


0,94


1,02


0,94


0,43


Trong đó tôm

Tấn/ha

/năm


0,47


0,52


0,52


0,52


0,52


2,04

3

Sản lượng

Tấn

271.650

291.140

281.567

306.318

282.043

0,75


Trong đó tôm


Tấn


125.483


138.314


139.967


146.054


145.181


2,96


4

Kim ngạch xuất khẩu

Tr.US D


888


1.046


1.336


966


961


1,59


Về môi trường trong nuôi trồng thủy sản


Với thực trạng nuôi trồng thủy sản chủ yếu là tôm, nuôi tôm nhỏ lẻ, phân tán tại Cà Mau như hiện nay nên việc quản lý môi trường gặp rất nhiều khó khăn.Việc sên, vét bùn, chất thải cải tạo ao đầm nuôi tôm; xả thải từ các nguồn khác (từ các cơ sở sản xuất, sinh hoạt dân cư…), các doanh nghiệp, người dân chưa có ý thức trong việc bảo vệ môi trường. Việc giám sát, kiểm tra, xử lý gặp rất nhiều khó khăn, ảnh hưởng trực tiếp đến nghề nuôi tôm, làm gia tăng dịch bệnh, gây thiệt hại cho sản xuất.

Chưa thiết lập được hệ thống quan trắc, cảnh báo môi trường vùng nuôi, nguồn kinh phí phục vụ cho việc quan trắc còn hạn chế. Sở Tài nguyên và Môi trường chỉ mới bố trí 02 trạm quan trắc phục vụ nuôi trồng thủy sản và Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng chỉ đạo cho các đơn vị chuyên môn thực hiện quan trắc môi trường ở các vùng nuôi tôm tập trung, nhưng hoạt động này không thực hiện thường xuyên do chưa tổ chức được bộ máy và nguồn kinh phí hạn chế. Theo kết quả quan trắc, các chỉ tiêu môi trường ảnh hưởng đến nuôi tôm biến động theo thời gian, có liên quan đến tình hình thời tiết và lịch sên vét cải tạo ao, đầm của các vùng nuôi và tình hình xả thải từ các nguồn khác. Nhìn chung, các yếu tố môi trường đã ảnh hưởng trực tiếp đến nghề nuôi tôm của tỉnh.

Về dịch bệnh

Trong những năm qua, tình hình dịch bệnh trên tôm nuôi thường xuyên xảy ra và gây thiệt hại tôm nuôi. Do hệ thống thủy lợi chưa đảm bảo; việc phát triển nuôi tôm thâm canh tự phát ngoài quy hoạch; việc sên vét, cải tạo ao đầm nuôi không theo quy định và các nguồn xả thải khác làm ô nhiễm môi trường, lây lan mầm bệnh. Nguồn lực phục vụ cho công tác giám sát, phòng ngừa dịch bệnh chưa tương xứng với vị thế nuôi tôm của tỉnh, nhưng với sự chỉ đạo quyết liệt của ngành Nông nghiệp và chính quyền các cấp nên dịch bệnh vẫn nằm trong tầm kiểm soát, chưa có tình trạng xảy ra dịch bệnh trên diện rộng phải công bố. Các cơ quan chuyên môn luôn chủ động giám sát, chuẩn bị sẵn sàng hóa chất để hỗ trợ dập dịch, ố lượng chlorine hỗ trợ xử lý dịch bệnh từ năm 2014 đến năm 2016 là 437 tấn, mặc dù số lượng hóa chất hỗ trợ không đáp ứng đủ nhu cầu nhưng cũng đã góp phần ngăn


chặn dịch bệnh bùng phát. Tuy nhiên, hàng năm thiệt hại do dịch bệnh trên tôm nuôi tỉnh cũng lên đến hàng trăm tỷ đồng.

Nguyên nhân trực tiếp làm cho tôm chết: Đối với nuôi thâm canh, tôm chết chủ yếu do bệnh hoại tử gan tụy cấp, phân trắng và đốm trắng. Đối với tôm nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến: Nguyên nhân chủ yếu là do môi trường tác động, chất lượng con giống… gây sốc cho tôm nuôi làm phát sinh bệnh đỏ thân, đốm trắng và một số bệnh khác.

Về tập huấn kỹ thuật, nhân rộng mô hình sản xuất hiệu quả

Từ năm 2012 đến nay, in và phát hành trên 322.000 ấn phẩm các loại; tuyên truyền trên sóng Phát thanh - Truyền hình, 240 kỳ chuyên đề “Bạn nhà nông” và chuyên đề “Nông thôn mới”, 52 kỳ chuyên đề “Kinh tế thủy sản”, 34 kỳ chương trình tọa đàm trực tiếp “Bàn chuyện nhà nông”. Tổ chức trên 5.079 lớp tập huấn kỹ thuật, tổ chức gần 400 cuộc hội thảo mô hình sản xuất có hiệu quả cấp huyện, tỉnh, 88 lớp đào tạo nghề cho lao động nông thôn…Một số mô hình được triển khai thực hiện thông qua các đề án, dự án đạt hiệu quả cao như: Mô hình “Ứng dụng chế phẩm sinh học trong nuôi tôm sú quảng canh cải tiến để nâng cao năng suất chất lượng”; mô hình “Nuôi tôm chân trắng thâm canh theo quy trình an toàn trong vùng dịch bệnh tại tỉnh Cà Mau”; mô hình “Nuôi tôm chân trắng kết hợp cá rô phi để cải thiện môi trường và hạn chế dịch bệnh”; mô hình “Áp dụng các tiêu chí của VietGap trong nuôi tôm thâm canh (tôm sú và tôm thẻ chân trắng)”,… Ngoài ra, phối hợp doanh nghiệp và người dân triển khai nhân rộng mô hình nuôi tôm siêu thâm canh lót bạt, mô hình nuôi tôm thâm canh có hố xi phông, mô hình nuôi tôm thâm canh hai giai đoạn, mô hình nuôi tôm quảng canh cải tiến ít thay nước... Nhìn chung việc ứng dụng, chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất đã đạt những kết quả quan trọng, tác động rất lớn đến nghề nuôi tôm của tỉnh.

2.1.3.Đánh giá chung về ngành nuôi trồng thủy sản tỉnh Cà Mau

Lợi thế và cơ hội


Cà Mau có tiềm năng, lợi thế rất lớn về phát triển thuỷ sản, đặc biệt là nuôi tôm, với ba mặt giáp biển, chiều dài bờ biển trên 254km với trên 80 cửa biển lớn. Vì thế, phần lớn diện tích đất đều có nguồn nước mặn lợ với chất lượng khá tốt, đáp ứng cho nhu cầu phát triển nuôi tôm. Hiện có hơn 300.000 ha nuôi trồng thuỷ sản, trong đó diện tích nuôi tôm mặn, lợ trên 278.000 ha với nhiều loại hình nuôi như siêu thâm canh, thâm canh, bán thâm canh, quảng canh cải tiến, quảng canh kết hợp,…đặc biệt loại hình nuôi tôm sú sinh thái, tôm - rừng, tôm - lúa có tiềm năng và lợi thế rất lớn cả về diện tích, sản lượng và chất lượng sản phẩm. Tỉnh đang nỗ lực đàm phán và tăng cường tập huấn, hướng dẫn người dân biện pháp bảo vệ môi trường; hỗ trợ trồng rừng đảm bảo đủ diện tích. Xây dựng hệ thống thủy lợi, hạ tầng để đáp ứng yêu cầu vùng nuôi, đảm bảo các yêu cầu của đối tác.


Thương hiêu

tôm sinh thái của Cà Mau đã được các nước trên thế giới rất ưa

chuộng. Theo kế hoac̣ h trong thời gian tới tỉnh sẽ công nhận toàn bộ diện tích nuôi tôm dưới tán rừng đạt các tiêu chuẩn nuôi sinh thái.


Mau hiện có 26 doanh nghiệp (34 nhà máy) chế biến và xuất khẩu tôm với tổng công suất thiết kế trên 250.000 tấn (nguyên liệu)/năm. Thiết bị, công nghệ, trình độ quản lý, vận hành, sản xuất hiện đại so với khu vực và thế giới; hầu hết các nhà máy chế biến tôm đều đạt các tiêu chuẩn quốc tế (SA-8000, ISO 26000, ISO- 9001, BRC, B.A.P,...). Cùng với đó là một hệ thống dịch vụ phục vụ cho nghề nuôi tôm phát triển khá mạnh. Lực lượng cán bộ kỹ thuật khá đông và nguồn lao động dồi dào (trên 300.000).

Dự báo đến năm 2020 dân số thế giới đạt 7,76 tỷ người và nhu cầu tiêu thụ tôm nuôi sẽ đạt trên 80 gram/người/năm, bình quân tăng 6,91%/năm (FAO, 2016). Vì vậy, tổng nhu cầu tôm khoảng 6,55 triệu tấn. Nếu khu vực nuôi tôm trọng điểm của thế giới không bị tác động lớn bởi dịch bệnh, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu thì nguồn cung chỉ đạt khoảng 4,44 triệu tấn vào năm 2018 (GOAL, 2016) và khoảng 4,49 triệu tấn vào năm 2020, bình quân tăng 4,14%/năm (FAO, 2016). Đây là cơ hội thuận lợi cho các nước có điều kiện tự nhiên nuôi tôm phát triển,

Xem tất cả 96 trang.

Ngày đăng: 29/02/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí