Giải Pháp Phòng Ngừa Và Giảm Thiểu Nợ Xấu Tại Các Nhtmcp Việt Nam


sách vĩ mô của chính phủ giúp ổn định nền kinh tế, giúp các doanh nghiệp cải thiện và mở rộng sản xuất, các doanh nghiệp hoạt động đã có lợi nhuận, nâng cao khả năng trả nợ, làm tỷ lệ nợ xấu giảm xuống. Nghị quyết 42 ra đời trao thêm quyền xử lý nợ xấu cho các NHTM, làm cho nợ xấu cũng được xử lý và kiểm soát tốt hơn.

Tỷ lệ lạm phát có quan hệ cùng chiều (tương quan dương) với tỷ lệ nợ xấu


Kết quả nghiên cứu cho thấy biến tỷ lệ lạm phát INF có ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa 1%, do đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến nợ xấu của các Ngân hàng TMCP Việt Nam giai đoạn 2008-2017. Kết quả này cũng rất phù hợp với các nghiên cứu trước đây như Bruna Škarica (2014), Đỗ Quỳnh Anh và Nguyễn Đức Hùng (2013).

Cũng như vào thực trạng tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ nợ xấu của các NHTMCP Việt Nam giai đoạn 2008-2017 như phần nghiên cứu thực trạng ở chương 3 thì kết quả này phù hợp.

Năm 2008, lạm phát tăng cao gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động huy động và cho vay, gây ra cuộc chạy đua lãi suất đẩy lãi suất lên cao, gây khó khăn cho việc thanh toán khoản vay làm cho nợ xấu gia tăng.

Năm 2009 với chính sách tiền tệ thắt chặt kéo tỷ lệ lạm phát xuống, nợ xấu cũng giảm. Năm 2010 và 2011 lạm phát tăng cao do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu, các chính sách của tăng chi tiêu đầu tư chính phủ đã không thể kích thích được nền kinh tế phát triển mà còn có tác động ngược lại, khiến tỷ lệ lạm phát tăng cao, ngoài ra việc tăng đầu tư cũng không làm tăng hiệu quả mà dẫn dến nợ xấu tăng lên.

Giai đoạn 2013-2017 tỷ lệ lạm phát được kiểm soát tốt hơn, nợ xấu cũng có xu hướng giảm xuống, chính phủ đã thực hiện chính sách tiền tệ thông qua lãi suất để làm giảm lạm phát bằng cách giảm lãi suất huy động và giảm lãi suất cho vay, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng trưởng lợi nhuận và tăng khả năng trả nợ, kéo tỷ lệ nợ xấu cũng giảm xuống.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.

Tỷ lệ thất nghiệp có quan hệ ngược chiều (tương quan âm) với tỷ lệ nợ xấu


Các yếu tố tác động đến nợ xấu tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - 9

Kết quả hồi quy với mức ý nghĩa thống kê 5% cho thấy tỷ lệ thất nghiệp có quan hệ ngược chiều với tỷ lệ nợ xấu. Điều này đi ngược lại với các nghiên cứu thực nghiệm trước đây các tác giả trên thế giới như Bofondi and Ropele (2011), Ahlem Selma Messai (2013).

Tuy nhiên nghiên cứu về thực trạng tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ nợ xấu của các NHTMCP Việt Nam ủng hộ kết quả hồi quy của tác giả, khi tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ kéo theo tỷ lệ nợ xấu giảm và ngược lại. Đặc biệt nghiên cứu thực trạng tại Việt Nam, kết quả phù hợp với giai đoạn 2008-2009, 2010-2013, 2014-2017. Điều này có thể giải thích rằng tỷ trọng cho vay tiêu dùng cá nhân trên tổng dư nợ còn thấp (chiếm khoản 18%) cho nên một khi có sự thay đổi trong thất nghiệp cá nhân cũng không ảnh hưởng lến đến nợ xấu của NHTM, ngoài ra do đặc thù tại Việt Nam có tỷ lệ thất nghiệp khá thấp, người lao động có thể làm bất cứ việc gì kiếm ra thu nhập bất kể trái với ngành nghề của mình, tỷ lệ thất nghiệp gần với tỷ thất nghiệp tự nhiên của nền kinh tế. Do đó, tỷ lệ thất nghiệp cũng có thể giải thích rất ít về tỷ lệ nợ xấu tại các NHTMCP Việt Nam mà phải kết hợp với các yếu tố khác như GDP, lạm phát, các yếu tố nội tại trong ngân hàng.

Quy mô ngân hàng có quan hệ ngược chiều (tương quan âm) với tỷ lệ nợ xấu


Kết quả hồi quy cho thấy tăng trưởng quy mô ngân hàng có tác động đến tỷ lệ nợ xấu ở mức ý nghĩa 5%. Kết quả này phù hợp với kỳ vọng về dấu, giả thuyết của tác giả và các kết quả nghiên cứu trước đây trên thế giới như Salas and Saurina (2002), Hu và cộng sự (2006), Ekanayake & Azeez (2015).

Theo Hu và các cộng sự (2006), các ngân hàng có quy mô càng lớn sẽ có nhiều nguồn lực và kinh nghiệm nhiều hơn trong công tác xử lý nợ xấu và phân tích các vấn đề lựa chọn đối nghịch (adverse selection) và rủi ro đạo đức (moral hazard). Trong khi đó thì các ngân hàng có quy mô nhỏ không thể giải quyết tối ưu vấn đề lựa chọn nghịch do thiếu năng lực và kinh nghiệm để đánh giá chất lượng tín dụng của


người đi vay. Điều này giải thích lý do các ngân hàng có quy mô nhỏ thường có tỷ lệ nợ xấu cao hơn so với các ngân hàng có quy mô lớn.

Theo phân tích thực trạng tại các NHTMCP Việt Nam cũng cho thấy mối quan hệ ngược chiều thể hiện rõ trong giai đoạn 2012-2017.

Giai đoạn 2008-2012, hệ thống ngân hàng gặp nhiều khó khăn từ cuộc khủng hoảng tài chính 2008 cũng như những khó khăn của nền kinh tế trong nước, tổng tài sản ngân hàng có tăng nhưng không nhiều, bên cạnh đó là nợ xấu trong giai đoạn này cũng có xu hướng tăng.

Giai đoạn 2012-2017 tăng trưởng quy mô ngân hàng tăng dần và tăng đột biến vào năm 2016. Giai đoạn này nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn phục hồi, lĩnh vực ngân hàng hoạt động tốt và bền vững, khả năng sinh lời ngày càng cao, thu hút nhiều nhà đầu tư vào ngân hàng, làm tăng trưởng quy mô ngân hàng tăng dần và đặc biệt vào năm 2016. Cũng trong giai đoạn này, Chính phủ và NHNN đã thực hiện đề án tái cơ cấu hệ thống các TCTD theo đúng mục tiêu, lộ trình đề ra và đạt được hiệu quả đáng kể, thống đốc NHNN khuyến khích các ngân hàng lớn như Vietcombank, BIDV, Vietinbank tham gia sáp nhập với các ngân hàng có quy mô nhỏ để tăng hiệu quả hoạt động, vừa hỗ trợ các ngân hàng nhỏ, vừa tăng quy mô ngân hàng. Nhờ các chính sách vĩ mô đúng đắn, nền kinh tế Việt Nam được hồi phục, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp mang lại nhiều hiệu quả dẫn đến tăng khả năng trả nợ và tỷ lệ nợ xấu cũng giảm xuống.

Tỷ lệ nợ xấu năm trước có quan hệ cùng chiều (tương quan dương) với tỷ lệ nợ xấu

Kết quả nghiên cứu cho thấy biến tỷ lệ nợ xấu năm trước có ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa 1%, do đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến nợ xấu hiện tại của các Ngân hàng TMCP Việt Nam giai đoạn 2008-2017. Kết quả này cũng phù hợp với kỳ vọng về dấu và phù hợp với kết quả các nghiên cứu trước đây như Rajha (2016), Đỗ Quỳnh Anh và Nguyễn Đức Hùng (2013).


Liên hệ với phần phân tích thực trạng của tỷ lệ nợ xấu năm trước và tỷ lệ nợ xấu năm hiện tại ở chương 3, nghiên cứu của tác giả hoàn toàn phù hợp trong cả giai đoạn 2008-2017, khi tỷ lệ nợ xấu năm trước cao kéo theo tỷ lệ nợ xấu năm sau sẽ cao vì xử lý nợ xấu là cả 1 quá trình, không thể xử lý ngắn hạn trong vòng 1 năm, do đó nợ xấu tích lũy dần dần và cần có thời gian để xử lý.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 4


Trong chương này tác giả đã trình bày về mô hình nghiên cứu, phương pháp, dữ liệu nghiên cứu, mô hình hồi quy, kết quả nghiên cứu về các yếu tố tác động đến nợ xấu tại các NHTMCP Việt Nam.

Tác giả xây dựng các giả thuyết về mối tương quan giữa các yếu tố vĩ mô, vi mô tác động đến nợ xấu tại các NHTMCP Việt Nam và kỳ vọng về dấu cũng như dựa trên các nghiên cứu thực nghiệm trước đây để đưa ra các giả thuyết này.

Tác giả thu thập dữ liệu nghiên cứu của 24 NHTMCP Việt Nam trong giai đoạn 2008-2017 và trình bày các mô hình nghiên cứu theo các phương pháp hồi quy Pool OLS, REM, FEM để ước lượng. Tác giả thực hiện các kiểm định cần thiết và khắc phục hiện tượng tự tương quan bằng phương pháp FGLS.

Kết quả hồi quy được tác giả phân tích và liên hệ với thực trạng tại các NHTMCP Việt Nam, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm giảm thiểu nợ xấu tại các NHTMCP Việt Nam hiện nay.


CHƯƠNG 5: GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA VÀ GIẢM THIỂU NỢ XẤU TẠI CÁC NHTMCP VIỆT NAM

5.1. Các giải pháp chính phủ và NHNN


Nợ xấu không phải chỉ là vấn đề của ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của riêng ngân hàng mà nó còn ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng của nền kinh tế. Do đó việc hạn chế nợ xấu cần được các ngân hàng, chính phủ và NHNN đặc biệt quan tâm.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, nợ xấu chịu tác động bởi các yếu tố vĩ mô. Tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ lệ thất nghiệp có tác động ngược chiều với tỷ lệ nợ xấu, còn tỷ lệ lạm phát có tác động cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu. Cụ thể trong phần nghiên cứu tác động của tốc độ tăng trưởng GDP đến tỷ lệ nợ xấu, tác giả nhận thấy từ năm 2015, tốc độ tăng trưởng GDP bắt đầu tăng trưởng đạt mực 6% -7%, ngoài ra tỷ lệ lạm phát ở giai đoạn này được kiềm chế ở mức 2% -4% là mức lý tưởng và tỷ lệ thất nghiệp duy trì ổn định, tỷ lệ nợ xấu cũng được đưa xuống mức dưới 3%. Để đạt được điều này, tác giả đưa ra một số giải pháp sau:

+ Đảm bảo tăng trưởng GDP ở mức 6%-7%


Tốc độ tăng trưởng GDP có tác động ngược chiều với tỷ lệ nợ xấu. Chính phủ cần xây dựng các chiến lược tăng trưởng để củng cố nền kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát, kết hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận trọng với chính sách tài khóa và các chính sách khác một cách chặt chẽ, nhất là các chính sách điều chỉnh giá, thuế, phí do nhà nước quản lý.

Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, cắt giảm và đơn giản hóa điều kiện kinh doanh cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, tạo môi trường kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng, công bằng cho khu vực kinh tế tư nhân trong nước.

Tập trung phát triển trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, đảm bảo tăng năng suất và hiệu quả cho các ngành trong các lĩnh vực này.


Cơ cấu lại lĩnh vực nông nghiệp, chuyển đổi từ mô hình sản xuất hộ gia đình riêng lẻ sang mô hình tập trung và quy mô lớn hơn, có các cơ chế và chính sách thu hút nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp nông thôn.

Đẩy mạnh cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước, nâng cao trình độ quản lý, đảm bảo công khai minh bạch trong quản lý các doanh nghiệp nhà nước, chính phủ giao các chỉ tiêu cho các doanh nghiệp nhà nước thực hiện đảm bảo hiệu quả sinh lời.

+ Kiềm chế lạm phát ở mức 2%-4%


Tỷ lệ lạm phát có tác động cùng chiều với tỷ lệ nợ xấu. Chính phủ cần thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt nhưng có phần thắt chặt, đồng thời kết hợp đồng bộ với chính sách tài khóa phù hợp và các chính sách kinh tế vĩ mô khác, điều hành tỷ giá hiệu quả, đảm bảo giá trị đồng Việt Nam.

Tăng thu ngân sách nhà nước và giảm thiểu đầu tư công, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách nhà nước.

Đẩy mạnh phát triển công nghiệp, nông nghiệp, xuất khẩu, đảm bảo cung cầu hàng hóa trong nước để không gây ảnh hưởng về đột biến giá cả, đẩy mạnh xuất khẩu. Tránh xảy ra tính trạng lạm dụng các biến động thị trường để đầu cơ, tăng giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho tiêu dùng và xản xuất như xăng, dầu, thuốc chữa bệnh, lương thực thực phẩm.

Tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát giá hàng hóa, yêu cầu các doanh nghiệp thực hiện tích cực và ủng hộ chính sách bình ổn giá cả thị trường.

Thực hiện tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh và tiêu dùng, tránh lãng phí.


+ Duy trì tỷ lệ thất nghiệp như hiện tại


Cần tạo ra nhiều công ăn việc làm, thu hút lao động với mức thu nhập phù hợp. Tăng cường công tác dạy nghề cho người lao động, tổ chức ngày hội việc làm.

Tạo khung pháp lý phù hợp, đảm bảo quyền lợi bình đẳng giữa người lao động và người sử dụng lao động.


Hoàn thiện hệ thống bảo hiểm thất nghiệp, góp phần ổn định đời sống người lao động, hỗ trợ người lao động nhanh chóng tìm được việc làm.

Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra các yếu tố vi mô như tỷ lệ nợ xấu năm trước và quy mô ngân hàng cũng có tác động đến nợ xấu. NHNN cần tăng cường xử lý nợ xấu triệt để, nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng, đảm bảo tăng trưởng quy mô và nâng cao năng lực cạnh tranh. Tác giả cũng đưa ra các giải pháp để giảm thiểu nợ xấu như sau:

+ Thực hiện tái cơ cấu ngân hàng, xử lý mạnh tay các ngân hàng yếu kém, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động ngân hàng

Các ngân hàng gặp khó khăn về thanh khoản, nợ xấu cao và nguy cơ đỗ vỡ rất cao, đe dọa lớn đến sự an toàn của cả hệ thống ngân hàng. Do đó vấn đề lớn được đặt ra là việc phải tái cơ cấu ngân hàng nhằm khắc phục những tồn tại yếu kém của các ngân hàng, giảm số lượng ngân hàng yếu kém và tăng quy mô sức mạnh của ngân hàng và nâng cao năng lực cạnh tranh, góp phần làm cho nợ xấu giảm xuống.

Đối với các ngân hàng nhỏ, năng lực quản lý yếu kém, và khả năng tài chính còn nhiều hạn hẹp thì việc đầu tư các trang thiết bị hiện đại hoặc nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ rất khó. Do đó, NHNN cần xử lý mạnh tay các ngân hàng yếu kém, thực hiện các biện pháp sáp nhập, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng nhằm củng cố hiệu quả hoạt động ngân hàng, tăng quy mô và làm giảm nợ xấu.

Việc tái cơ cấu, sáp nhập góp phần gia tăng quy mô về vốn, mở rộng mạng lưới hoạt động, giúp cho ngân hàng sau sáp nhập tiết kiệm được chi phí hoạt động, góp phần tăng lợi nhuận cho ngân hàng, làm cho hoạt động ngân hàng sau khi sáp nhập hoạt động hiệu quả hơn, từ đó góp làm giảm nợ xấu của ngân hàng.

+ Cần phát huy vai trò của VAMC trong việc xử lý nợ xấu

VAMC là công cụ hữu hiệu trong việc xử lý nợ xấu. Cần nâng cao năng lực của VAMC bằng việc tiếp tục tăng vốn điều lệ cho VAMC, nâng cao năng lực tài chính của VAMC, bên cạnh đó NHNN cần chú trọng phát triển thị trường mua bán nợ xấu nhằm giúp VAMC xử lý nhanh chóng nợ xấu các TCTD bằng cách tạo môi trường pháp lý thuận lợi và khuôn khổ pháp lý chặt chẽ, các quy định điều tiết và giải quyết

Xem tất cả 99 trang.

Ngày đăng: 10/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí