Kết Quả Hồi Quy Mô Hình Khả Năng Sinh Lời Của Ngân Hàng Từ Lãi Suất Và Các Yếu Tố Quyết Định Lợi Nhuận Khác


4.2. Phân tích kết quả hồi quy


Sau khi kiểm định các giả thiết định lượng, cho thấy tồn tại phương sai thay đổi và tự tương quan do có p-value đều bằng 0.0000 < α = 0.05. Ngoài ra còn tồn tại hiện tượng nội sinh và đa cộng tuyến. Nên phương pháp hồi quy tuyến tính dữ liệu bảng GMM là một giải pháp hữu hiệu để ước lượng hồi quy trong mô hình.


Bảng 4.9: Kết quả hồi quy mô hình khả năng sinh lời của ngân hàng từ lãi suất và các yếu tố quyết định lợi nhuận khác



NIM

PROFIT

ROA

ROE

SIZE

1.151263**

1.444957***

0.1146191

2.552261**

CAP

0.5510697***

0.2339403**

0.0123085

0.7341606

LOANTA

7.86231***

6.71707***

0.2079012

15.4409

NITA

47.19349

97.19079***

30.11619**

685.7593***

GDP

51.15637

-101.9064*

14.68915*

-109.7745

IRS

99.70543*

-102.0581*

0.5948811

19.32669

IRS2

-641.7228**

650.4078**

49.4701 4

109.996

IRL

-3.724802

650.4078

0.0316518

-51.65197

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lời và chấp nhận rủi ro tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam - 8


(Nguồn: Tổng hợp từ Phần mềm Stata)


(*, **, *** tương ứng với mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%)


Bảng 4.10: Kết quả hồi quy mô hình rủi ro ngân hàng từ lãi suất và các yếu tố quyết định khác



PCL

SIZE

-0.0037302

CAP

-0.0002795

LOANTA

-0.0794638

NITA

0.3030282

GDP

-0.2781891


IRS

1.099274*

IRS2

-5.346907*

IRL

-.3730253


(Nguồn: Tổng hợp từ Phần mềm Stata)


(*, **, *** tương ứng với mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%)


4.2.1. Phân tích kết quả mô hình


Tác giả tìm thấy thực nghiệm tại Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ cùng chiều của các yếu tố nội tại và vĩ mô ảnh hưởng đến lợi nhuận thuần của hoạt động tín dụng (NIM) như là SIZE, CAP, LOANTA, IRS. Khi các yếu tố này tăng lên thì làm lợi nhuận thuần tăng lên, nhưng IRS2 có tác động ngược chiều. Trong khi các yếu tố chưa tìm thấy bằng chứng thực nghiệm ảnh hưởng đến

NIM là NITA, GDP, IRL.


Lợi nhuận chung của ngân hàng (PROFIT), thực nghiệm tại Việt Nam chỉ ra rằng các yếu tố tác động cùng chiều là SIZE, CAP, LOANTA, NITA, ISR2, yếu tố tác động âm là GDP, IRS, còn IRL chưa tìm thấy mối quan hệ.


Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA), thực nghiệm tại Việt Nam chỉ ra rằng các nhân tố ảnh hưởng cùng chiều là NITA, GDP, các yếu tố chưa tìm thấy mối quan hệ là SIZE, CAP, LOANTA, IRS, IRS2, IRL.

Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), thực nghiệm tại Việt Nam chỉ ra rằng các yếu tố tác động cùng chiều là SIZE, NITA, các yếu tố chưa tìm ý nghĩa là CAP, LOANTA, GDP, IRS, IRS2, IRL.

Theo bảng 4.9 trình bày mối quan hệ giữa lãi suất và lợi nhuận của ngân hàng đo lường thông qua các yếu tố lợi nhuận thuần của hoạt động tín dụng (NIM), lợi


nhuận chung của ngân hàng (PROFIT), mức độ sử dụng hiệu quả của tài sản (ROA), mức độ sử dụng hiệu quả của vốn (ROE).


Kết quả thực nghiệm tại Việt Nam chỉ ra mối quan hệ cùng chiều của lãi suất ngân hàng ảnh hưởng tới lợi nhuận thuần của hoạt động tín dụng (NIM), mối quan hệ này tăng lên cùng chiều khi lãi suất tăng thì lợi nhuận thuần của hoạt động tín dụng tăng theo. Sau đó đến một lúc lãi suất tăng cao quá thì đổi chiều, lãi suất tăng làm lợi nhuận của hoạt động tín dụng giảm xuống (vì IRS2 có dấu âm), có biểu đồ

hình chữ U ngược có ý nghĩa thống kê. Kết quả này phù hợp với quan điểm của paper gốc của Jacob A. Bikker và Tobias M. Vervlietnăm 2017, nghiên cứu tại khu vực Hoa Kỳ.


Kết quả của PROFIT trong lãi suất ngắn hạn có ảnh hưởng ngược chiều đến lợi nhuận chung của ngân hàng. Đối với ROA và ROE, tác giả tìm thấy thực nghiệm tại Việt Nam trong khu vực nghiên cứu chưa tìm thấy bằng chứng giữa lãi suất ngắn hạn ảnh hưởng đến ROA và ROE.


Khi xét lợi nhuận của hiệu suất sử dụng tài sản và lợi nhuận của hiệu suất sử dụng vốn (ROA & ROE) thì kết quả tìm thấy bằng chứng khác với kết quả thực nghiệm của paper gốc không có tác động. Trong khi lợi nhuận của hoạt động thương mại (NIM) có ý nghĩa thống kê giống paper gốc, có tác động cùng chiều. Nên kết quả này dẫn tới việc là lợi nhuận ngoài lãi tại Việt Nam tức phần lợi nhuận còn lại trong ROA và ROE chưa tìm thấy bằng chứng có ý nghĩa thống kê.


Theo bảng 4.10 trình bày mối quan hệ giữa lãi suất và khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng đo lường thông qua yếu tố trích lập dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng dư nợ (PCL).


Kết quả thực nghiệm tại Việt Nam chỉ ra mối quan hệ cùng chiều của lãi suất ngân hàng ảnh hưởng tới yếu tố trích lập dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng dư nợ (PCL), mối quan hệ này tăng lên sau đó đổi chiều (IRS2 có dấu âm) hình chữ U


ngược có ý nghĩa thống kê. Kết quả này phù hợp với quan điểm của paper gốc của Jacob A. Bikker và Tobias M. Vervlietnăm 2017, nghiên cứu tại khu vực Hoa Kỳ.


4.2.2. Thảo luận kết quả nghiên cứu


- Quan hệ giữa lãi suất ngắn hạn ảnh hưởng đến lợi nhuận thuần của tín dụng là tác động cùng chiều với mức ý nghĩa 10% có ý nghĩa thống kê, nhưng đến một lúc lãi suất tăng cao quá thì đổi chiều. Kết quả này phù hợp với quan điểm của tác giả Jacob A. Bikker và Tobias M. Vervlietnăm 2017, nghiên cứu tại khu vực Hoa Kỳ.


Tác giả giải thích rằng việc tăng IRS làm cho NIM tăng lên là do lãi suất thị trường tăng làm cho lãi suất cho vay tăng sẽ làm tăng thu nhập từ lãi vì ngân hàng hoạt động thu lợi nhuận dựa trên hoạt động truyền thống của ngân hàng là cho vay. Lãi suất ngắn hạn có ảnh hưởng tích cực đáng kể tới biên lãi ròng.


Phát hiện này tương ứng với các tài liệu liên quan của Alessandri và Nelson (2015). Nghiên cứu về lợi nhuận ngân hàng với hoạt động kinh tế trong thời gian suy thoái sâu, nhận thấy có tác động. Bài nghiên cứu cũng tìm thấy lãi suất dài hạn trong những năm trước là yếu tố quyết định quan trọng của lợi nhuận ngân hàng trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế cao.


Theo tài liệu của Borio, C., Gambacorta, L., & Hofmann, B. (2015). “Bài nghiên cứu tìm thấy một mối quan hệ tích cực giữa lãi suất ngắn hạn và độ dốc của đường cong lợi suất, một mặt khác là về lợi nhuận của ngân hàng. Điều này cho thấy tác động tích cực của cơ cấu lãi suất đến thu nhập và chi phối tiêu cực về các khoản dự phòng rủi ro”.


Theo Genay và Podjasek (2014). Một trong những hoạt động cốt lõi của các ngân hàng truyền thống là chuyển đổi kỳ hạn, trong đó một ngân hàng vay vốn trong thời gian ngắn và thực hiện các khoản vay và đầu tư dài hạn. Thông thường các ngân hàng được hưởng lợi từ đường cong lợi suất dốc, do sự chênh lệch lớn


giữa lãi suất ngắn hạn và dài hạn. Khi đường cong lợi suất dốc lên, biên lãi ròng của các ngân hàng (NIM) tăng. Ngược lại, khi đường cong lợi suất bị san phẳng, NIM của các ngân hàng giảm xuống. Ngoài ra, lãi suất ngắn hạn thấp có thể nén NIM nếu tài sản và nợ của các ngân hàng chuyển qua hoặc đẩy lùi vào các thời điểm khác nhau. Tất cả những thứ khác đều bằng nhau, mọi thay đổi trong thu nhập lãi ròng của các ngân hàng sẽ chuyển qua lợi nhuận cuối cùng của họ. Điều đó nói rằng, nếu thay đổi lãi suất cũng làm thay đổi đáng kể các nguồn thu nhập khác hoặc nếu các ngân hàng phòng ngừa rủi ro lãi suất hoặc thay đổi hoạt động của họ theo những cách khác, thì thay đổi lãi suất có thể ảnh hưởng ít nhiều đến lợi nhuận chung của ngân hàng. Từ những kết quả này, có thể kết luận rằng môi rường lãi suất thấp liên tục dẫn đến một giảm biên lãi ròng, vốn là nguồn lợi nhuận chính của ngân hàng, môi trường lãi suất ngân hàng phải đấu tranh để tạo ra lợi nhuận từ cho vay và tài trợ truyền thống của họ.


Việt Nam từ 2005 – 2010, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) và lãi suất ngắn hạn thị trường có chiều hướng biến động ngược chiều. Nhưng từ năm 2010 đến nay, lãi suất ngắn hạn có mối quan hệ cùng chiều với tỷ lệ thu nhập lãi cận biên NIM và đang có xu hướng giảm. Hiện nay, để đảm bảo yêu cầu tỷ lệ an toàn vốn của TCTD do NHNN quy định. Đây là nguyên nhân khiến các NHTM đang cố gắng phát triển hoạt động huy động vốn trung – dài hạn. Điều này khiến cho lãi suất trên thị trường huy động và cho vay tăng nhẹ do cạnh tranh thu hút tiền gửi giữa các ngân hàng, cùng với sự thay đổi quy định tỷ lệ sử dụng vốn của NHNN. Thêm vào đó thì khả năng cho vay của một bài ngân hàng cũng đang tiến triển tốt với lãi suất cho vay cũng tăng vì tăng theo lãi suất huy động để có lãi mà trả chi chi phí cũng như trích lập dự phòng rủi ro. Như vậy, chính sách này sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới thu nhập của ngân hàng trong giai đoạn tới.


- Kết quả của lãi suất ngắn hạn ảnh hưởng đến lợi nhuận có tác động ngược chiều đối với lợi nhuận chung của ngân hàng với mức ý nghĩa 10%. Ban đầu khi lãi suất còn thấp, khi lãi suất tăng làm lợi nhuận chung giảm nhưng đến giai đoạn lãi


suất đạt một mức ngưỡng sẽ làm lợi nhuận chung tăng lên ( do IRS2dương), biểu đồ có hình chữ U. Lợi nhuận chung không bị tổn hại do lãi suất thấp tỷ lệ môi trường.


Kết quả này có phần đáng ngạc nhiên nhưng phù hợp với đề xuất của Genay và Podjasek (2014). Rõ ràng, các ngân hàng có thể bù đắp cho giảm NIM theo cách mà lợi nhuận chung không bị suy yếu, các ngân hàng đã làm điều này bằng cách đầu tư nhiều rủi ro hơn và do đó tăng thu nhập ngoài lãi của họ, sẽ được thảo luận trong phần tiếp theo Genay và Podjasek (2014) đề nghị các ngân hàng duy trì mức lợi nhuận chung thông qua thu nhập phí cao hơn hoặc thông qua việc hạ thấp quy định. Hiệu ứng sau này cũng sẽ được giải quyết trong phần tiếp theo. Hơn nữa, tác động ròng đến lợi nhuận có thể là tích cực khi môi trường lãi suất thấp dẫn đến kết quả kinh tế tốt hơn thông qua tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn, giá nhà cao hơn và tăng trưởng GDP nhanh hơn. Ảnh hưởng của quy mô ngân hàng được cho là tích cực. Hiệu quả tích cực rất mạnh của vốn hóa chủ yếu là do định nghĩa của lợi nhuận biến bao gồm vốn và dự trữ, hơn nữa bằng chứng được cung cấp rằng các ngân hàng có vốn hóa tốt hơn làm lợi nhuận cao hơn.


Tuy nhiên, hiệu ứng tiêu cực đáng kể từ thực tế rằng, trong điều kiện kế toán của các khoản dự phòng của ngân hàng được khấu trừ trực tiếp từ lợi nhuận (xem Bikker & Hu, 2002) . Lần nữa, tác động tiêu cực của tăng trưởng GDP thực tế với lợi nhuận ngân hàng phù hợp với Kết quả nhận định của Bolt và cộng sự (2012) rằng lợi nhuận của ngân hàng theo chu kỳ kinh doanh là mạnh mẽ hơn cho các cuộc suy thoái sâu hơn trong những ngày nhẹ. Và tìm thấy bằng chứng rằng cứ mỗi phần trăm thu hẹp GDP thực trong thời gian suy thoái nghiêm trọng sẽ dẫn đến giảm 0,24% lợi nhuận trên tài sản ngân hàng. Bên cạnh đó ta thấy đa dạng hóa, cho vay và tỷ lệ vốn được tìm thấy có mối quan hệ cùng chiều.


Từ năm 2014-2016, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng giảm mạnh cho thấy khả năng thanh khoản của ngân hàng dư thừa là do từ tháng 2-6/2018 NHNN liên tục mua 10 tỉ đô la Mỹ đã đưa ra thị trường một lượng tiền lớn.


Nhưng lãi suất trên thị trường huy động tăng nhẹ do cạnh tranh thu hút tiền gửi giữa các ngân hàng, sức ép từ tỷ giá thay đổi và các kênh đầu tư khác, cùng với sự thay đổi quy định tỷ lệ sử dụng vốn của NHNN. Trong khi đó thì lãi suất cho vay khó có thể tăng mà phải giảm để thu hút khách hàng, làm lợi nhuận ngân hàng bị thu hẹp do chênh lệch giữ lãi suất huy động và cho vay.


Khi chênh lệch lãi suất bình quân trên thị trường càng cao thì khả năng sinh lời càng giảm. Để giải thích kết quả này, để lý giải thích trường hợp này như sau: khi chênh lệch lãi suất tăng, các ngân hàng thường ưu tiên tập trung vốn để cho vay nhiều hơn là đầu tư vào các chứng khoán có tính thanh khoản. Và chính việc đẩy mạnh cho vay để tìm kiếm lợi nhuận trong thời gian ngắn sẽ khiến cho các ngân hàng gặp phải rủi ro trong tín dụng là rất lớn. Khi đó, mặc dù cho vay nhiều hơn trong tình trạng chênh lệch lãi suất cho vay – huy động lớn nhưng chất lượng các khoản cho vay mới không cao dẫn đến khả năng sinh lợi bị giảm sút.


2017, nền kinh tế Mỹ có sự biến động lãi suất do FED có động thái tăng lãi suất cơ bản lên. Tình hình này làm mặt bằng lãi suất chung tăng lên không chỉ ảnh hưởng tới nền kinh tế thế giới mà còn ảnh hưởng tới kinh tế Việt Nam. Bên cạnh đó, việc các nước xuất khẩu dầu đạt được đồng thuận về việc cắt giảm sản lượng khai thác kể từ tháng 1/2017 cũng có thể đẩy giá dầu tăng trở lại. Điều này tuy có lợi cho cán cân ngân sách, nhưng việc giá dầu thô và các mặt hàng năng lượng tăng trở lại có thể sẽ tạo ra sức ép lên lạm phát trong nước. Mặc dù, đây chỉ là dự báo, nhưng các chuyên gia khuyến nghị Chính Phủ, nhà quản trị lưu ý và cẩn trọng trong việc ban hành các chính sách.


- Kết quả của nghiên cứu này chưa tìm thấy bằng chứng thực nghiệm giữa lãi suất ảnh hưởng đến lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) và lợi nhuận trên tổng vốn chủ sở hữu (ROE) kết quả này không giống paper gốc Jacob A. Bikker và Tobias

M. Vervlietnăm 2017, nghiên cứu tại khu vực Hoa Kỳ. Trong khi mối quan hệ giữa lãi suất ngắn hạn ảnh hưởng cùng chiều đến lợi nhuận thuần của hoạt động tín dụng


(NIM) cùng chiều với paper gốc của tác giả. Lợi nhuận còn lại trong ROA và ROE tức lợi nhuận ngoài lãi là nguyên nhân làm cho mối quan hệ này chưa có ý nghĩa, làm ảnh hưởng tới mối quan hệ giữa lãi suất ngắn hạn tới ROA và ROE.


Thực trạng từ 2010-2017, tại Việt Nam so với Hoa Kỳ, lợi nhuận ngoài lãi gặp vấn đề là không có tham gia hoạt động đầu tư nhiều như những ngân hàng nước ngoài. Do tính dặc thù và riêng biệt của ngân hàng Việt Nam chưa có triển khai được những dịch vụ ngoài lãi. Ngân hàng Việt Nam chỉ chú trọng hoạt động tín dụng, là nghiệp vụ gắn chặt với hoạt động truyền thống của ngân hàng, không tham gia hoạt động đầu tư nhiều nên hoạt động ngoài lãi ít, nên thu nhập lãi thuần là thu nhập chủ yếu của ngân hàng.


Tuy nhiên đến năm 2018, tỷ trọng thu nhập có sự thay đổi mặc dù thu nhập từ hoạt động tín dụng vẫn là nguồn thu chủ yếu nhưng tỷ trọng đã giảm đi. Bù đắp vào tỷ trọng thiếu hụt đó các ngân hàng tìm nhiều cách để tăng tỷ trọng của nguồn thu nhập ngoài lãi chủ yếu từ dịch vụ thẻ, phí dịch vụ ngân hàng điện tử, phí từ dịch vụ bán bảo hiểm, thanh toán quốc tế, lãi từ chứng khoán đầu tư.


Đặc biệt là những NHTMCP phải chịu áp lực cạnh tranh về tín dụng so với các ông lớn như Vietcombank, BIDV, Vietinbank…, đã có sự chuyển mình trong việc tăng các hoạt động ngoài lãi điển hình như: HDBank có lãi thuần dịch vụ tăng 172% cùng kỳ thu nhập, mua bán chứng khoán đầu tư tăng gấp đôi, thu nhập khác tăng gấp 3 lần. VIB có bước tiến trong những phân khúc lợi nhuận khác cao hơn đó là tăng doanh thu bảo hiểm. Techcombank tăng thu nhập ngoài lãi từ chứng khoán đầu tư và thu nhập từ thoái vốn, hoa hồng bảo hiểm cũng được đẩy mạnh.


- Cột thứ hai trên bảng 4.10 mô tả thái độ của ngân hàng đối với rủi ro tín dụng. Kết quả thực nghiệm tại Việt Nam chỉ ra mối quan hệ cùng chiều của lãi suất ngân hàng ảnh hưởng rủi ro tín dụng, mối quan hệ này tăng lên sau đó đổi chiều (IRS2 có dấu âm) hình chữ U ngược có ý nghĩa thống kê là 10%. Kết quả này phù

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 07/04/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí