thống nhất. Một số nghiên cứu cho thấy mối quan hệ tiêu cực giữa kinh nghiệm quốc tế và kết quả xuất khẩu (Baldauf và cộng sự, 2000; Cooper & Kleinschmidt, 1985), trong khi hầu hết các nghiên cứu báo cáo ảnh hưởng tích cực của kinh nghiệm quốc tế đến kết quả xuất khẩu (Lages & Montgomery, 2005; Zou & Stan, 1998). Hơn nữa, nhiều nghiên cứu đã tìm ra mối quan hệ cùng chiều giữa kinh nghiệm quốc tế và kết quả xuất khẩu (Katsikeas và cộng sự, 1996; Majocchi và cộng sự, 2005; O'Cass & Julian, 2003a). Từ đó, giả thuyết H2a được đề xuất như sau:
H2a: “Kinh nghiệm quốc tế có mối quan hệ cùng chiều với kết quả xuất khẩu”.
Đối với mô hình Uppsala của lý thuyết quốc tế hoá, kinh nghiệm quốc tế đóng vai trò trung tâm trong việc quản lý chiến lược và hoạt động ở thị trường nước ngoài (Johanson & Vahlne, 1977). Kinh nghiệm quốc tế không chỉ ảnh hưởng mục tiêu theo đuổi chiến lược toàn cầu mà còn là vị trí của doanh nghiệp trong ngành. Quản lý giàu kinh nghiệm quốc tế có nhiều năng lực xác định thị trường chiến lược, linh hoạt phản ứng với sự thay đổi môi trường toàn cầu và tận dụng lợi thế so sánh khác biệt của các TTXK (Zou & Cavusgil, 2002). Hơn nữa, kinh nghiệm quốc tế là đầu vào cơ bản để hỗ trợ quyết định chiến lược marketing trong bối cảnh quốc tế (Majocchi và cộng sự, 2005; O'Cass & Julian, 2003a). Học hỏi kinh nghiệm quốc tế có thể giúp các doanh nghiệp phát triển năng lực, cho phép họ hiểu rõ hơn về thị trường nước ngoài và thiết kế các EMS hiệu quả dẫn đến kết quả xuất khẩu cao hơn (Katsikeas và cộng sự, 1996; Johanson & Vahlne, 2009).
Madsen (1989) xác nhận kinh nghiệm quốc tế dẫn đến sự hiểu biết tốt hơn về cơ chế thị trường và mạng lưới liên hệ cá nhân, do đó cải thiện quyết định chiến lược marketing, và thực hiện tốt hơn kết quả xuất khẩu. Trong khi hiểu biết về vấn đề chiến lược quan trọng thường được coi là phức tạp (Cavusgil & Zou, 1994), nhà quản lý kinh nghiệm có xu hướng hiểu rõ hơn về đặc điểm của thị trường nước ngoài, và do đó ở một vị trí tốt hơn để thích nghi chiến lược với yêu cầu của thị trường địa phương (Douglas & Craig, 1989; Johansson & Vahlne, 1977). Morgan và cộng sự (2004) chứng minh rằng các nguồn lực kinh nghiệm trong điều kiện chiến lược marketing thích nghi ảnh hưởng đến vị trí và LTCT doanh nghiệp tại TTXK. Khi kinh nghiệm
quốc tế ngày càng tăng, các doanh nghiệp có thể nhận thấy sự không chắc chắn ít hơn trong hoạt động xuất khẩu, hiểu rõ hơn cơ chế TTXK, phát triển mạng lưới liên hệ cá nhân và quan hệ khách hàng ở nước ngoài, và do đó thiết kế và thực hiện các EMS hiệu quả (Madsen, 1989). Vì vậy, giả thuyết H2b được đề xuất như sau:
H2b: “Kinh nghiệm quốc tế có mối quan hệ cùng chiều với chiến lược marketing xuất khẩu thích nghi”.
2.3.3 Cam kết xuất khẩu ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu và chiến lược marketing xuất khẩu thích nghi
Dựa trên nền tảng lý thuyết quốc tế hóa, phần này tập trung phân tích đến mối quan hệ tác động từ cam kết xuất khẩu vào kết quả xuất khẩu và EMS. Theo mô hình Uppsala, quá trình quốc tế hóa được thành lập theo tuần tự phát triển và xây dựng các cam kết xuất khẩu (Morgan & Katsikeas, 1997). Do đó, các doanh nghiệp thường sẽ tiếp cận dần dần để vào TTXK dẫn đến cam kết nguồn lực ngày một mở rộng (Johanson & Vahlne, 1977; Luo và cộng sự, 2005). Cam kết xuất khẩu phản ánh đặc điểm quản lý liên quan đến hành vi của những người ra quyết định đối với việc thực hiện các hoạt động mở rộng trong quá trình quốc tế hóa doanh nghiệp (Sinkovics & cộng sự, 2018). Hơn nữa, theo lý thuyết quốc tế hóa (Johanson & Vahlne, 1977, 1990), trọng tâm là sử dụng kiến thức liên quan đến thị trường quốc tế, hoạt động và tăng cường cam kết đối với thị trường quốc tế. Các đặc điểm doanh nghiệp có thể được đo lường thông qua lượng nguồn lực để phát triển xuất khẩu, mức độ lập kế hoạch, mức độ cam kết về nguồn lực và quản lý của doanh nghiệp tại TTXK (Cavusgil & Zou, 1994; Di Fatta & cộng sự, 2018).
Có thể bạn quan tâm!
- Thống Kê Các Phương Pháp Đo Lường Kết Quả Xuất Khẩu
- Chiến Lược Marketing Xuất Khẩu Thích Nghi
- Rào Cản Xuất Khẩu – Rào Cản Kỹ Thuật Thương Mại
- Sự Khác Biệt Môi Trường Ảnh Hưởng Đến Kết Quả Xuất Khẩu Và Chiến Lược Marketing Xuất Khẩu Thích Nghi
- Tóm Tắt Các Giả Thuyết Nghiên Cứu
- Tiến Độ Thực Hiện Đề Tài Nghiên Cứu
Xem toàn bộ 260 trang tài liệu này.
Theo giả định quan trọng của mô hình Uppsala thuộc lý thuyết quốc tế hóa, cam kết xuất khẩu là yếu tố then chốt trong quá trình quốc tế hóa và có tác động tích cực đến nhận thức cơ hội và rủi ro của doanh nghiệp tại TTXK, do đó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả xuất khẩu (Johanson & Vahlne, 2009). Hơn nữa, cam kết xuất khẩu làm tăng sự tương tác không chỉ trong nội bộ doanh nghiệp mà còn với môi trường bên ngoài (Johanson & Vahlne, 2009). Khi doanh nghiệp tiếp cận dần dần để vào TTXK dẫn đến cam kết xuất khẩu ngày một mở rộng, dẫn đến tăng thông tin thị
trường và giảm nguy cơ lẫn sự không chắc chắn (Navarro và cộng sự, 2010a). Khi các nhà quản lý thực hiện cam kết xuất khẩu, đồng nghĩa với việc phân bổ đủ nguồn lực lên kế hoạch và quản lý TTXK, từ đó kết quả xuất khẩu sẽ hiệu quả hơn (Aaby & Slater, 1989; Lages và cộng sự, 2008b). Một số nghiên cứu thừa nhận cam kết xuất khẩu có ảnh hưởng tích cực đến kết quả xuất khẩu (Lages & Montgomery, 2004; Lages và cộng sự, 2008b; Fuchs & Köstner, 2016; Sinkovics và cộng sự, 2018; Di Fatta và cộng sự, 2018; Hasaballah và cộng sự, 2019). Dựa trên các lập luận trước đó, giả thuyết H3a được đề xuất như sau:
H3a: “Cam kết xuất khẩu có mối quan hệ cùng chiều với kết quả xuất khẩu”.
Hơn nữa, lý thuyết dựa vào nguồn lực (RBV) giải thích cam kết xuất khẩu là chìa khóa thực hiện hiệu quả EMS doanh nghiệp (Navarro và cộng sự, 2010a). Những nguồn lực phân bổ cho phép doanh nghiệp cải thiện nghiên cứu và phân tích thị trường, hỗ trợ nhà quản lý thực hiện chiến lược marketing thích nghi với nhu cầu của các TTXK khác nhau (Cavusgil & Zou, 1994). Bởi lẻ khi doanh nghiệp cam kết nhiều hơn, sẽ phân bổ nhiều nguồn lực hơn cho TTXK (Di Fatta và cộng sự, 2018). Vì thế sự phù hợp việc tùy chỉnh các chiến lược marketing thích nghi với nhu cầu thị trường địa phương thường tăng lên (Lages và cộng sự, 2008b; O`Cass & Julian, 2003a).
Hơn nữa, khi mức độ nguồn lực ngày càng tăng được cam kết cho hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp có thể cải thiện quy trình lập kế hoạch và thực hiện các chiến lược thích nghi hơn, vì sự thích nghi đòi hỏi nguồn lực lớn hơn. Khi doanh nghiệp thể hiện cam kết mạnh mẽ trong xuất khẩu, các nhà quản lý có động cơ làm việc chăm chỉ hơn trong các nhiệm vụ đòi hỏi như điều chỉnh chiến lược. Nếu không có các nguồn lực phù hợp cam kết cho doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp không thể tham gia vào các điều chỉnh cần thiết chiến lược marketing của doanh nghiệp để đáp ứng nhu cầu TTXK (Lages và cộng sự, 2008b). Tóm lại, khi mức độ gia tăng nguồn lực được cam kết cho hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp có vị thế tốt hơn, cải tiến quy trình lập kế hoạch và thực hiện hiệu quả EMS. Vì thế, giả thuyết H3b được đề xuất như sau:
H3b: “Cam kết xuất khẩu có mối quan hệ cùng chiều với chiến lược marketing xuất khẩu thích nghi”.
2.3.4 Đặc điểm sản phẩm ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu và chiến lược marketing xuất khẩu thích nghi
Đặc điểm sản phẩm được tranh luận tác động đến kết quả xuất khẩu bao gồm tính đặc thù văn hóa, tính độc đáo của sản phẩm và sức mạnh bằng sáng chế (Cavusgil & Zou, 1994; O'cass & Julian, 2003b). Kết hợp với lý thuyết RBV (quan điểm dựa trên nguồn lực), có thể dễ dàng thấy được các tính chất của đặc điểm sản phẩm phù hợp với các tính chất của nguồn lực có giá trị như hiếm, khó để sao chép, khó có thể thay thế (David, 2014). Do đó, đặc điểm sản phẩm có thể được xem là nguồn lực nội bộ giúp doanh nghiệp giành LTCT bền vững, được xác định tác động đến kết quả xuất khẩu trên TTXK (Cavusgil và cộng sự, 1993).
Rau quả Việt Nam là rau quả nhiệt đới, ngon, phong phú, quý hiếm, hương vị đặc trưng, và riêng biệt của vùng miền. Các sản phẩm rau quả Việt Nam xuất khẩu có các đặc điểm độc đáo cấu thành bởi chất lượng và hương vị đặc sắc của rau quả nhiệt đới. Vì thế, đây là các sản phẩm độc đáo đặc biệt thích hợp để xuất khẩu, cho phép doanh nghiệp dễ dàng chinh phục TTXK. Các tính chất của đặc điểm sản phẩm như tính độc đáo sản phẩm, dịch vụ khách hàng tuyệt vời, hoặc được cấp bằng sáng chế là các tiêu chí phân biệt doanh nghiệp với các đối thủ cạnh tranh. Khi doanh nghiệp cung cấp các sản phẩm độc đáo thuyết phục người mua, sự cạnh tranh trực tiếp được giảm thiểu, hỗ trợ gia tăng kết quả xuất khẩu vượt trội (Knight & Casvugil, 2004). Đặc điểm sản phẩm được lập luận ảnh hưởng đến vị trí LTCT của doanh nghiệp, do đó ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu (O'cass & Julian, 2003b; Knight & Casvugil, 2004). Do đó, trong bối cảnh đặc điểm sản phẩm và kết quả xuất khẩu, giả thuyết H4a được đề xuất như sau:
H4a: “Đặc điểm sản phẩm có mối quan hệ cùng chiều với kết quả xuất khẩu”. Tương tự, các sản phẩm độc đáo có giá trị được ưu tiên cho phép các doanh nghiệp hạn chế nguồn lực dễ dàng thâm nhập thị trường nước ngoài và có thể đặc biệt thích hợp với các doanh nghiệp toàn cầu đã ra đời, có xu hướng hoạt động ở các thị
trường ngách và nắm giữ các nguồn lực tương đối chuyên biệt (Knight & Casvugil, 2004). Tính độc đáo của sản phẩm được giả thuyết có liên quan tích cực đến EMS. Nếu một sản phẩm đáp ứng nhu cầu phổ quát, việc tiêu chuẩn hóa được tạo điều kiện (Levitt, 1983). Nếu một sản phẩm chỉ đáp ứng các nhu cầu duy nhất, cần phải hướng dẫn khách hàng xuất khẩu và có nhiều yêu cầu hơn để đáp ứng các điều kiện sử dụng sản phẩm (Cavusgil và cộng sự, 1993). Tương tự, tính đặc thù về văn hóa của sản phẩm được đưa ra giả thuyết ảnh hưởng tích cực đến mức độ thích nghi chiến lược marketing; đặc biệt trong tình huống sản phẩm được xuất khẩu, cơ sở văn hóa mà sản phẩm được phát triển có thể không phù hợp với cơ sở văn hóa của TTXK. Để có cơ hội tăng trưởng khả thi, rau quả xuất khẩu phải phù hợp với điều kiện của TTXK, và cách tiếp cận, đóng gói dán nhãn và cách tiếp cận quảng cáo phải được tùy chỉnh để phù hợp với các đặc điểm văn hóa (ví dụ: ngôn ngữ và biểu tượng) tại TTXK (Cavusgil và cộng sự, 1993; O'cass & Julian, 2003b). Như vậy, giả thuyết H4b được đề xuất như sau:
H4b: “Đặc điểm sản phẩm có mối quan hệ cùng chiều với chiến lược marketing xuất khẩu thích nghi”.
2.3.5 Năng lực công nghệ ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu và chiến lược marketing xuất khẩu thích nghi
Theo quan điểm lý thuyết RBV xác định năng lực công nghệ là một nguồn lực nội bộ quan trọng của doanh nghiệp (Sousa & Novello, 2014). Năng lực công nghệ được tiếp cận theo RBV dưới dạng “năng lực năng động”, chiếm vai trò quan trọng trong quản lý chiến lược thông qua thích nghi, tích hợp và cấu hình lại các nguồn lực doanh nghiệp (Teece và cộng sự, 1997; Knight & Cavusgil, 2004; Jin & Cho, 2018). Hơn nữa, theo lý thuyết quốc tế hóa, công nghệ chính là cơ sở nền tảng cho các yêu cầu của quá trình quốc tế hóa, doanh nghiệp sở hữu công nghệ hiện đại dẫn đến nâng cao chất lượng sản phẩm và phát triển các sản phẩm sáng tạo với mức giá cao (Jin & Cho, 2018). Knight và Cavusgil (2004) đã phát hiện doanh nghiệp kinh doanh toàn cầu định hướng nguồn lực phát triển năng lực công nghệ nhằm gia tăng kết quả xuất khẩu. Vai trò của năng lực công nghệ là một trong những yếu tố giải thích kết quả
xuất khẩu được nhấn mạnh trong các nghiên cứu (Cavusgil & Zou, 1994; Lopez & Garcia, 2005; Hortinha và cộng sự, 2011; Sousa & Novello, 2014).
Quan điểm RBV thừa nhận vai trò quan trọng của năng lực công nghệ vì chúng cung cấp năng lực đổi mới để tạo ra LTCT (Lopez & Garcia, 2005), bởi lẻ các nguồn lực công nghệ hợp lý có thể tạo ra LTCT dựa trên sự khác biệt chất lượng vượt trội và mang lại mức độ cạnh tranh cao hơn. Ngoài ra, năng lực công nghệ đề cập đến mức độ của bí quyết khoa học được thể hiện trong một sản phẩm, là tài sản kỹ thuật hữu hình và vô hình của doanh nghiệp (Sousa & Novello, 2014). Trong trường hợp này, doanh nghiệp sở hữu năng lực công nghệ có những bí quyết công nghệ độc đáo hỗ trợ cho việc mở rộng quốc tế. Do đó, vai trò của năng lực công nghệ là một trong những yếu tố chính để giải thích kết quả xuất khẩu đã được nhấn mạnh (Cavusgil & Zou, 1994; Lopez & Garcia, 2005).
Các nghiên cứu khác nhau đã phát hiện ra tác động của các biến liên quan đến công nghệ tác động đến kết quả xuất khẩu của doanh nghiệp, bao gồm: Đổi mới công nghệ (Azar & Ciabuschi, 2017; Lopez & Garcia, 2005), đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (Dhanaraj & Beamish, 2003; Flor & Oltra, 2005 ), học tập công nghệ (Zahra và cộng sự, 2006; Zhou và cộng sự, 2007), cường độ công nghệ (Sousa & Novello, 2014), định hướng công nghệ (Zhou và cộng sự, 2005, Hortinha và cộng sự, 2011) và năng lực công nghệ (Knight & Cavusgil, 2004; Jin & Cho, 2018). Chẳng hạn, đổi mới công nghệ giúp tăng cường kết quả xuất khẩu (Azar & Ciabuschi, 2017), hơn nữa đổi mới công nghệ kết hợp với sản phẩm, quy trình và bằng sáng chế ảnh hưởng tích cực LTCT và kết quả xuất khẩu (Lopez & Garcia, 2005). Tương tự, Dhanaraj & Beamish (2003) nhận thấy rằng các năng lực liên quan đến hoạt động nghiên cứu và phát triển tác động đáng kể đến kết quả xuất khẩu. Ngoài ra, mối quan hệ giữa đầu tư cải tiến công nghệ và kết quả xuất khẩu đã được khẳng định, cho phép doanh nghiệp đạt được năng lực thích nghi TTXK và cho phép khai thác tài sản công nghệ vô hình, có thể được sử dụng trong các thị trường bên ngoài phạm vi quốc gia mà không có bất kỳ chi phí bổ sung nào cho doanh nghiệp (Flor & Oltra, 2005).
Học tập công nghệ tiên tiến từ nước ngoài cũng tương quan đáng kể với kết quả xuất khẩu (Zhou và cộng sự, 2007). Sousa & Novello (2014) đã phát hiện rằng cường độ công nghệ đóng vai trò quan trọng, tương quan mạnh mẽ và ảnh hưởng tích cực đến kết quả xuất khẩu. Các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ trong sản xuất nhằm giảm chi phí và tạo sự khác biệt về đặc điểm sản phẩm so với đối thủ. Áp dụng công nghệ hiện đại hỗ trợ doanh nghiệp cải thiện chất lượng sản phẩm và năng suất trong vận hành, mang lại lợi ích cho kết quả xuất khẩu (Jin & Cho, 2018). Khi doanh nghiệp định hướng công nghệ có thể sử dụng công nghệ và khuyến khích áp dụng công nghệ vào sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, do đó cải thiện kết quả xuất khẩu (Sousa & Novello, 2014; Hortinha và cộng sự, 2011).
Việc áp dụng công nghệ hiện đại nhằm cải thiện chất lượng sản phẩm, mang lại lợi ích và gia tăng kết quả xuất khẩu. Các nghiên cứu chỉ ra năng lực cạnh tranh cốt lõi của doanh nghiệp vừa và nhỏ dựa trên ứng dụng công nghệ vào sản phẩm (Bonaccorsi, 1992). Các doanh nghiệp có năng lực công nghệ thường được đánh giá cao về giá trị (Zhou và cộng sự, 2005). Năng lực công nghệ thúc đẩy khuyến khích những ý tưởng mới của doanh nghiệp sử dụng các công nghệ tiên tiến (Hortinha và cộng sự, 2011). Tương tự, Jin & Cho (2018) xác nhận năng lực công nghệ nên được phát triển để gia tăng kết quả xuất khẩu. Do đó, năng lực công nghệ là một nguồn lực quan trọng của doanh nghiệp tác động tích cực đến kết quả xuất khẩu (Knight & Cavusgil, 2004; Flor & Oltra, 2005; Jin & Cho, 2018).
Năng lực công nghệ của các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả Việt Nam được đánh giá theo hướng tiếp cận áp dụng các công nghệ từ bên ngoài, bởi lẻ do đặc thù của sản phẩm nông nghiệp và ngành hàng, các doanh nghiệp ngành rau quả xuất khẩu của Việt Nam ứng dụng các công nghệ trong quá trình sản xuất, đóng gói và bảo quản rau quả. Hơn nữa, áp dụng công nghệ hiện đại vào quy trình sản xuất nông nghiệp còn là yêu cầu bắt buộc để có thể đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật thương mại của các TTXK (ITA, 2020). Thông thường, công nghệ bị hạn chế bởi sự thiếu sáng tạo và hiểu biết sâu sắc về việc tạo dựng hoặc vận dụng công nghệ trong quá trình sản xuất (Sousa & Novello, 2014). Vì vậy, ngay cả khi công nghệ hiện đại đến từ bên ngoài
doanh nghiệp, năng lực công nghệ vẫn chiếm vai trò quan trọng do các doanh nghiệp phải điều chỉnh công nghệ phù hợp với điều kiện sử dụng cụ thể hoặc sửa đổi nó để cải thiện các tiêu chuẩn hiệu quả ban đầu. Do đó, nếu như các doanh nghiệp xuất khẩu rau quả có thể ứng dụng công nghệ phù hợp và hiệu quả, năng lực công nghệ sẽ ảnh hưởng tích cực đến kết quả xuất khẩu. Theo cách này, các kỹ năng liên quan đến các chức năng sản xuất khác nhau không chỉ xác định năng lực hoặc sự thành thạo, trong đó các công nghệ nhất định được phát triển cải thiện và quản lý trong doanh nghiệp mà còn xác định các nỗ lực nội bộ được sử dụng để đồng hóa các công nghệ đã được mua hoặc học hỏi từ các doanh nghiệp khác (Flor & Oltra, 2005).
Việc ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất rau quả đang được thúc đẩy, góp phần tăng sản lượng và chất lượng sản phẩm rau quả xuất khẩu (Trung tâm WTO và hội nhập, 2019). Hơn nữa năng lực công nghệ của doanh nghiệp là yếu tố nội bộ có mối liên hệ mật thiết với các tiêu chuẩn chất lượng đối với mặt hàng rau quả tươi và chế biến, các điều kiện thực hành sản xuất và chế biến tại cơ sở. Đây là các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật đặc biệt quan trọng trong ngành xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp (Roberts và cộng sự, 1999). Doanh nghiệp sở hữu năng lực công nghệ nhằm đáp ứng các yêu cầu kiểm tra, quy trình sản xuất và các chứng nhận trước khi tham gia vào TTXK (ITA, 2020), do đó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả xuất khẩu. Từ những phân tích trên, giả thuyết H5a được đề xuất như sau:
H5a: “Năng lực công nghệ có mối quan hệ cùng chiều với kết quả xuất khẩu”.
Tương tự, lý thuyết RBV gợi ý cái nhìn tổng thể về doanh nghiệp, trong đó việc triển khai phối hợp các nguồn lực và năng lực cung cấp nền tảng cho việc tạo ra, sản xuất và marketing sản phẩm. Các doanh nghiệp tận dụng công nghệ để đổi mới tạo ra và cải tiến sản phẩm, cũng như thích ứng của sản phẩm đối với thị trường nước ngoài. Công nghệ xây dựng và giao tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm hiểu về khách hàng và đối thủ cạnh tranh, tương tác kênh hiệu quả và các lợi ích khác. Nhìn chung, như với hầu hết các doanh nghiệp, công nghệ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình marketing trong các doanh nghiệp toàn cầu (Knight & Cavusgil, 2004).