Mức Độ Quan Tâm Và Các Hướng Nghiên Cứu Về Hành Vi Tuân Thủ Thuế


quan thuế cung cấp; cũng như các yếu tố về tuổi, giới tính, trình độ, thu nhập, số năm kinh doanh) đến hành vi tuân thủ thuế (tự nguyện, bắt buộc) của hộ kinh doanh làm nghề và kinh doanh nghề trong các làng nghề ở Đồng băng Sông Hồng.

Về đối tượng nghiên cứu: trong các làng nghề hiện nay hộ kinh doanh bao gồm: HKD làm nghề và kinh doanh nghề, HKD khác. Tuy nhiên, đối tượng nghiên cứu của luận án là HKD làm nghề và kinh doanh nghề trong các làng nghề ở Đồng băng Sông Hồng.

4. Đóng góp của luận án

4.1. Đóng góp về mặt lý luận

Thứ nhất, theo lý thuyết hành vi có kế hoạch, chuẩn mực chủ quan là yếu tố có ảnh hưởng đến hành vi tuân thủ thuế của người nộp thuế. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu chỉ ra chuẩn mực chủ quan là yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến hành vi TTT tự nguyện và ảnh hưởng nhiều thứ hai đến hành vi tuân thủ thuế bắt buộc của hộ KDCT trong các làng nghề ở Việt Nam. Kết quả này chưa từng được các nghiên cứu trước chỉ ra. Đây là đóng góp mới về mặt lý luận của luận án khi mà chuẩn mực chủ quan với đặc trưng riêng có với hộ KDCT làm nghề và kinh doanh nghề trong các làng nghề ở Việt Nam - nơi mà văn hóa “làng xã” (văn hóa gia đình và dòng tộc), văn hóa phường, hội nghề hiện hữu hàng ngày. Khi đó ảnh hưởng những người thân (trong gia đình, dòng họ, phường, hội) - những người thường có sự hỗ trợ (về mặt vật chất, trí tuệ) và dìu dắt (định hướng), làm chỗ dựa cho nhau trong cuộc sống, trong kinh doanh đối với hộ KDCT sẽ ảnh hưởng nhiều đến hành vi TTT tự nguyện/bắt buộc ở hộ KDCT làm nghề và kinh doanh nghề trong các làng nghề ở Việt Nam.

Thứ hai, kết quả tổng quan nghiên cứu chỉ ra: mối quan hệ giữa nhận thức về tính công bằng của hệ thống thuế, niềm tin vào CQ thuế và hành vi tuân thủ thuế chưa hoàn toàn đồng thuận, khi đang có 3 hướng kết quả về mối quan hệ này: (i) công bằng

niềm tin hành vi TTT (Alm và cộng sự, 2012; Kogler và cộng sự, 2013; Lisi, 2014); (ii) niềm tin công bằng hành vi TTT (Jimenez và Iyer, 2016); (iii) niềm tin vào cơ quan thuế điều chỉnh mối quan hệ giữa nhận thức công bằng và tuân thủ thuế (Fadjar O.P. Siahaan,2012; Abba Ya’u và Natrah Saad, 2019). Trong khi đó, kết quả nghiên cứu của luận án chỉ ra niềm tin vào cơ quan thuế là biến trung gian trong mối quan hệ giữa nhận thức công bằng và hành vi tuân thủ thuế. Kết quả nghiên cứu của luận án là phù hợp, bởi vì niềm tin vào cơ quan thuế của người nộp thuế chịu ảnh hưởng bởi chính nhận thức của người đó về hệ thống thuế là công bằng (Alm và cộng sự, 2012). Hay có thể hiểu, trong một xã hội mà cơ quan thuế tôn trọng người nộp thuế


và áp dụng các thủ tục minh bạch, công bằng thì sẽ tăng niềm tin (tin tưởng) của người nộp thuế và tính tuân thủ thuế cũng cao hơn (Lisi, 2014). Như vậy, khi cơ quan thuế hành động công bằng đối với người nộp thuế, sẽ nuôi dưỡng lòng tin trong họ và qua đó kích thích sự tuân thủ tự nguyện (Kogler và cộng sự, 2013). Như vậy, kết quả nghiên cứu luận án tiếp tục khẳng định (i) công bằng niềm tin hành vi TTT của hộ KDCT trong các làng nghề ở Việt Nam, và đây là một đóng góp mới của luận án về bối cảnh.

Thứ ba, kết quả nghiên cứu chỉ ra khả năng bị kiểm tra, thanh tra thuế ảnh hưởng đến hành vi TTT bắt buộc, nhưng ảnh hưởng này chỉ rõ ràng khi nhận thức về quyền lực của cơ quan thuế ở hộ KDCT trong các làng nghề ở Việt Nam là cao. Đây là đóng góp mới về mặt lý luận của luận án vì kết quả nghiên cứu này cũng chưa được công trình nghiên cứu trước (mà tác giả có thể tiếp cận) chỉ ra. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu này phù hợp với bối cảnh ở Việt Nam khi mà việc kiểm tra, thanh tra thuế đối với hộ KDCT diễn ra khá thường xuyên nhưng số sai phạm được phát hiện ít, các hình phạt chưa đủ sức răn đe dẫn đến nhận thức về quyền lực của cơ quan thuế ở hộ KDCT là thấp. Điều đó dẫn đến thực trạng dù hoạt động kiểm tra thuế được thực hiện nhiều nhưng hành vi tuân thủ thuế ở hộ KDCT không có nhiều cải thiện (khi mà số thuế thu từ hộ KDCT vẫn chưa tương xứng với kết quả kinh doanh thực tế của các hộ KDCT) và điều này là do nhận thức về quyền lực của cơ quan thuế là thấp ở hộ KDCT.

4.2. Đóng góp về mặt thực tiễn

Thứ nhất, từ kết quả nghiên cứu, luận án đưa ra khuyến nghị: (i) cần quy định và gắn trách nhiệm của chính quyền các cấp trong tổ chức pháp luật thuế tại địa phương; (ii) CQT cần tăng cường phối hợp với tổ chức phường, hội ở xã/phường tổ chức hội nghị chuyên về cập nhật các chính sách pháp luật thuế mới (sửa đổi, bổ sung) để thông tin kịp thời đến hộ KDCT và để hộ KDCT hiểu, thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về thuế qua đó thúc đẩy hành vi TTT ở hộ KDCT trong các làng nghề ở Việt Nam.

Thứ hai, dựa trên kết quả nghiên cứu, luận án đưa ra khuyến nghị: (i) chính sách thuế với hộ KDCT cần hoàn thiện theo hướng phải đảm bảo tính tương đồng giữa nhóm hộ kinh doanh nộp thuế khoán với nhau; (ii) cần quy định cụ thể về các biện pháp xử phạt đối với hộ KD gian lận thuế, vi phạm pháp luật về thuế (như tăng mức phạt nếu vi phạm gian lận về thuế lần thứ hai ở mức cao hơn gấp nhiều lần so với mức vi phạm lần đầu), cũng như quy định trong lựa chọn tuyên dương, khen thưởng hộ KD tuân phủ pháp luật thuế; (iii) CQT cần tiếp tục chỉ đạo các đội thuế xã, phường khảo sát các hộ có doanh thu dưới quy định, đặc biệt những hộ nhiều năm chưa quản lý thuế


để đưa vào quản lý thuế đúng quy định để từ đó gia tăng hành vi TTT ở hộ KDCT trong cách làng nghề ở Việt Nam.

Thứ ba, với kết quả nghiên cứu, luận án đề xuất khuyến nghị: (i) CQT cần căn cứ danh sách hộ KDCT được phân loại theo các mức độ rủi ro (không tuân thủ thuế) để lựa chọn các trường hợp thanh tra, kiểm tra tại trụ sở hộ KDCT; và đảm bảo theo hướng không dưới 90% số lượng trường hợp được thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch hàng năm. Trường hợp được lựa chọn ngẫu nhiên không quá 10% số lượng trường hợp được thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch hàng năm; (ii) Định kỳ, CQT rà soát các trường hợp hộ KDCT không tuân thủ, có dấu hiệu rủi ro cao để lựa chọn bổ sung vào kỳ kế hoạch thanh tra kiểm tra điều chỉnh hàng năm hoặc thanh tra đột xuất; (iii) biện pháp xử phạt đối với những hành vi gian thuế cần nghiêm minh, cần đưa ra các hình thức xử phạt cụ thể và mức phạt ở lần sau cao hơn nhiều lần so với lần đầu, đủ sức răn đe để từ đó góp phần gia tăng hành vi TTT của Hộ KDCT.


5. Kết cấu luận án

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phụ lục thì luận án được kết cấu gồm 5 chương:

Chương 1: Tổng quan nghiên cứu

Chương 2: Cơ sở lý luận và mô hình nghiên cứu

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu

Chương 4: Bối cảnh nghiên cứu và kết quả nghiên cứu

Chương 5: Thảo luận kết quả nghiên cứu và khuyến nghị nhằm thúc đẩy tuân thủ thuế ở hộ KDCT trong các làng nghề ở Việt Nam


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU


1.1. Mức độ quan tâm và các hướng nghiên cứu về hành vi tuân thủ thuế

Nghiên cứu về thuế có thể được tiếp cận từ các lĩnh vực đa ngành như luật, kinh tế, kế toán, tâm lý học và tài chính công (McKerchar, 2010). Trong đó, nghiên cứu của Groves (1958) về trốn thuế thu nhập là một trong những nghiên cứu được ghi nhận sớm nhất trong nghiên cứu về hành vi của người nộp thuế. Groves (1958) tiếp cận gián tiếp để đánh giá hành vi trốn thuế bằng cách phỏng vấn những người thuê nhà về thu nhập và chi phí mà chủ nhà của họ phải chịu trong quá trình quản lý căn hộ của họ. Sau đó, ông có thể kiểm tra các tờ khai thuế của chủ nhà để xác định mức độ tuân thủ thuế của chủ nhà. Từ đó đến hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về hành vi tuân thủ của người nộp thuế đã thực hiện trên thế giới với mục tiêu nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu khác nhau (Xem bảng 2 – Phụ lục 01).

Ở Việt Nam, chủ đề nghiên cứu về tuân thủ thuế cũng được nhiều nhà khoa học ở Việt Nam thực hiện trong các công trình nghiên cứu của mình: Nguyễn Thị Lệ Thúy (2009) thực hiện luận án tiến sỹ kinh tế với đề tài về “Hoàn thiện quản lý thu thuế của Nhà nước nhằm tăng cường sự tuân thủ thuế của doanh nghiệp (nghiên cứu tình huống của Hà Nội)”; Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Hoàng Quân (2012) với nghiên cứu “Các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi tuân thủ thuế của doanh nghiệp tư nhân - Xét trên khía cạnh nộp thuế đúng hạn”; Nguyễn Hoàng và Đào Thị Phương Liên (2013) với nghiên cứu về “Ảnh hưởng của chính sách thuế đến tuân thủ thuế: Kết quả khảo sát và một số kiến nghị”; Đặng Thị Bạch Vân (2014) với chủ đề nghiên cứu “Xoay quanh vấn đề người nộp thuế và tuân thủ thuế”; Phan Thị Mỹ Dung và Lê Quốc Hiếu (2015) với nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến tuân thủ thuế của các doanh nghiệp”; Lèng Hoàng Minh (2017) với luận án tiến sĩ về “Nâng cao tính tuân thủ thuế của người nộp thuế ở Việt Nam; Bùi Ngọc Toản (2017) với nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tuân thủ thuế thu nhập của doanh nghiệp - Nghiên cứu thực nghiệm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”; Phạm Thị Mỹ Linh (2019) với luận án tiến sĩ nghiên cứu về “Các nhân tố ảnh hưởng đến tuân thủ thuế của doanh nghiệp Việt Nam: Nghiên cứu trường hợp thành phố Hà Nội”; Nguyễn Thị Thùy Dương và cộng sự (2019) trong nghiên cứu về “Determinants Influencing Tax Compliance: The Case of Vietnam;...

Bên cạnh đó, hiểu một cách giản đơn thì tuân thủ thuế là mức độ sẵn sàng đóng thuế của người nộp thuế; không tuân thủ thuế có thể hiểu là khi người nộp thuế không nộp thuế của mình (Kirchler, 2007). Theo Kirchler và Wahl (2010), tuân thủ và không


tuân thủ có thể được phân biệt: (i) tuân thủ thuế gồm tuân thủ thuế tự nguyện và tuân thủ thuế bắt buộc; (ii) không tuân thủ thuế bao gồm trốn thuế và tránh thuế (Xem bảng 2.1). Trong đó, tuân thủ tự nguyện bao gồm động cơ cơ bản, cụ thể là trên đó coi việc nộp thuế là nghĩa vụ của một công dân, trong khi việc tuân thủ bắt buộc liên quan đến nỗi sợ bị phát hiện và bị trừng phạt. Tránh thuế có thể được mô tả là việc giảm thiểu thuế trong ranh giới pháp lý, và trốn thuế bao gồm cả việc vi phạm pháp luật (Cechovsky, 2018). Dựa trên góc độ tiếp cận này, kết quả tổng quan các công trình nghiên cứu mà tác giả có thể tiếp cận được từ năm 1992 đến năm 2021, chỉ ra hướng nghiên cứu về tuân thủ thuế được thực hiện nhiều hơn so với hướng nghiên cứu về không tuân thủ thuế (Khi có đến 48/63 công trình mà tác giả có thể thu thập nghiên cứu về tuân thủ thuế - Xem bảng 1 của Phụ lục 01), nghiên cứu về hành vi tuân thủ thuế tự nguyện và tuân thủ thuế bắt buộc được thực hiện nhiều từ năm 2012-2021; và các công trình nghiên cứu về hành vi tuân thủ thuế được thực hiện ở nhiều quốc gia, cả ở các nước phát triển và các nước đang phát triển (Mỹ, Áo, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ý, Malaysia, Indonesia, Jordan, Ghana, Campuchia, Việt Nam...)

Với các công trình nghiên cứu về tuân thủ thuế, hướng nghiên cứu của các tác giả cũng rất đa dạng và có sự kế thừa, nghiên cứu bổ sung các khía cạnh liên quan đến tuân thủ thuế. Trong đó, hướng nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến ý định, hành vi tuân thủ thuế được nhiều nghiên cứu thực hiện (Xem bảng 1 – Phụ lục 01) và cũng có những nghiên cứu hướng đến làm rõ về hành vi tuân thủ thuế (Arcos Holzinger và cộng sự, 2016; Alm và cộng sự, 2016), xây dựng thang đo đo lường về hành vi tuân thủ thuế (Kirchler and Wahl, 2010) hay như đánh giá, so sánh về tuân thủ thuế ở nhiều hoặc giữa các quốc gia (Mas’ud và cộng sự, 2019; Alm và cộng sự, 2016; Mas’ud và cộng sự, 2014; Natrah Saad, 2012; Alan Lewis và cộng sự, 2009).

Về sắc thuế, thì hướng nghiên cứu về hành vi tuân thủ thuế theo sắc thuế cũng khá đa dạng như thuế thu nhập doanh nghiệp (Bùi Ngọc Toản, 2017; Gobena và cộng sự, 2016), thuế giá trị gia tăng (Azmi và cộng sự, 2016; Harju và cộng sự, 2019; Xin He và Huina Xiao, 2019; Fjeldstad và cộng sự, 2020; Alshira’h và cộng sự, 2020) hay thuế thu nhập (Khasawneh và cộng sự, 2008) (Xem bảng 1 – Phụ lục 01)

Về đối tượng nộp thuế: bên cạnh đối tượng nghiên cứu là cá nhân, người nộp thuế (Alm và cộng sự ,2010; Benk và cộng sự, 2010; Lèng Hoàng Minh, 2017; Da Silva và cộng sự, 2019, Robbins và Kiser, 2020,..) thì các nghiên cứu về tuân thủ thuế cũng đa dạng về đối tượng nghiên cứu như các doanh nghiệp lớn (Siglé và cộng sự, 2018) cũng như các doanh nghiệp nói chung (Nguyễn Thị Lệ Thúy, 2009; Phan Thị Mỹ Dung và Lê Quốc Hiếu, 2015; Bùi Ngọc Toản, 2017; Phạm Thị Mỹ Linh, 2019;


Nguyễn Thị Thùy Dương và cộng sự, 2019), hay như doanh nghiệp vừa và nhỏ (Malik và Younus, 2020; Alshira’h và cộng sự, 2020), doanh nghiệp siêu nhỏ (Abba Ya’u, Natrah Saad, 2019) doanh nghiệp khởi nghiệp (Nagel và cộng sự, 2018), doanh nghiệp tư nhân (Nguyễn Minh Hà và Nguyễn Hoàng Quân, 2012), cá nhân tự kinh doanh (Eichfelder và Kegels, 2014; Olsen và cộng sự, 2018; Choo và cộng sự, 2016) hay như đại lý thuế (Abdul Hamid, 2014), chuyên gia tư vấn thuế (Darmayasa và Aneswari, 2015), nhân viên thuế (Fagbemi và cộng sự, 2010). Tuy nhiên, từ với đối tượng hộ KD cá thể (làm nghề và kinh doanh nghề nghề tại các làng nghề) thì chưa được nghiên cứu nào thực hiện và đây là một khoảng trống trong nghiên cứu về tuân thủ thuế.

Trong khi đó, Ở Việt Nam với đối tượng nghiên cứu là hộ kinh doanh cá thể thì hướng nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tuân thủ thuế của hộ kinh doanh cá thể nói chung và hộ KD cá thể trong các làng nghề chưa từng được nghiên cứu trước và là khoảng trống trong nghiên cứu về hành vi tuân thủ thuế. Bởi vì hầu hết các nghiên cứu ở Việt Nam chủ yếu tập trung vào khía cạnh quản lý thuế. Như tác giả Lê Kim Ngọc (2016) với đề tài “Hoàn thiện quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội”. Tác giả đã phân tích được thực trạng và chỉ ra những ưu, nhược điểm trong công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn quận Hoàng Mai. Luận văn cũng nhấn mạnh những nguyên nhân chính dẫn đến một số bất cập trong công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể. Từ đó tác giả đã đưa ra một số giải pháp cụ thể đó là: Nâng cao hiệu lực bộ máy quản lý thuế bằng cách nâng cao chất lượng công tác xây dựng kế hoạch dự toán thu Ngân sách hàng năm, khai thác triệt để nguồn thu, chống thất thu; Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn, thực hiện sắp xếp lại nhiệm vụ giữa các đội trong công tác xác định doanh thu, mức thuế của hộ kinh doanh; Tăng cường công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế; Nguyễn Thị Biên (2017) với đề tài “Tăng cường quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể nộp thuế theo phương pháp khoán trên địa bàn huyện Thanh trì, thành phố Hà Nội”. Luận văn đã trình bày khá đầy đủ và chi tiết cơ sở lý luận về quản lý thuế đối với hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán, bao gồm: Khái niệm, phân loại, vai trò của thuế; Khái niệm đặc điểm và vai trò của hộ kinh doanh cá thể; Quan niệm, đặc điểm, nội dung và các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể. Dựa trên dữ liệu thu thập được, tác giả đã có nhưng đánh giá về thực trạng công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể nộp thuế theo phương pháp khoán tại địa phương. Từ đó, những nhóm giải pháp được đưa ra là: Đổi mới mục tiêu, hoàn thiện tổ chức bộ máy trong quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể; Hoàn thiện các công cụ và ứng dụng các


phương pháp hiện đại trong quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể; Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc thu thuế và ý thức chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của hộ kinh doanh cá thể; Nguyễn Thị Thủy (2017) với bài báo “Thực trạng quản lý thuế đối với hộ kinh doanh”. Bài báo đã chỉ ra được những hạn chế trong công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh như: Tình trạng trốn thuế, gian lận thuế và nợ đọng thuế gây thất thu NSNN vẫn diễn ra thường xuyên, chưa khuyến khích được ý thức tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế; Hạn chế từ công tác xác định mục tiêu, đối tượng quản lý thuế và công tác tổ chức bộ máy thu thuế cho đến việc thực hiện các quy trình kiểm tra, thanh tra quản lý thuế của cơ quan thuế. Bài báo cũng chỉ ra được các nguyên nhân của hạn chế, từ đó tác giả đưa ra một số giải pháp bao gồm: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền hỗ trợ, hoàn thiện hệ thống Luật, Thông tư, Nghị định về Thuế, Quản lý kê khai, ấn định thuế với các hộ kinh doanh thuộc đối tượng thu theo phương pháp khoán và ổn định thuế, tăng cường kiểm tra, xử lý các trường hợp vi phạm về thuế; Nguyễn Hải Nam (2020) với bài báo nghiên cứu về “Quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn Huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang” từ kết quả phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể giai đoạn 2017 - 2019, kết quả phân tích số liệu từ mẫu điều tra, khảo sát 60 hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn huyện Việt Yên đã đánh giá được những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân cũng như rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang và đề xuất một số giải pháp về tập trung rà soát đối tượng kinh doanh và tăng cường công tác quản lý nợ đọng nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn huyện Việt Yên, để đảm bảo nguồn thu ngân sách Nhà nước.

Như vậy, dựa trên các công trình nghiên cứu có thể tiếp cận, tác giả nhận thấy hướng nghiên cứu về tuân thủ thuế được nhiều tác giả thực hiện, tuy nhiên hướng nghiên cứu về hành vi tuân thủ thuế với hộ kinh doanh cá thể trong các làng nghề ở Việt Nam là hướng nghiên cứu chưa từng được thực hiện và là khoảng trống trong nghiên cứu về tuân thủ thuế.

1.2. Các lý thuyết, mô hình nghiên cứu liên quan đến hành vi tuân thủ thuế

Tuân thủ thuế có lẽ là thuật ngữ trung lập nhất để mô tả sự sẵn sàng nộp thuế của người nộp thuế (Kirchler, 2007) và khó có thể nhìn nhận theo một góc độ, quan điểm chung về tuân thủ thuế (Devos, 2008). Allingham và Sandmo (1972) định nghĩa TTT là quyết định kê khai thu nhập thực tế với CQT trong điều kiện không chắc chắn. NNT có thể quyết định kê khai thuế để hướng đến số tiền nộp thuế đúng (bằng) hoặc ít hơn


số tiền thuế phải nộp. Quyết định của họ phụ thuộc vào xác suất bị phát hiện và tỷ lệ phạt. Tuy nhiên, các bằng chứng thực nghiệm trong lĩnh vực này chưa có cơ sở để ủng hộ mô hình này và người ta tin rằng hành vi tuân thủ của người nộp thuế có liên quan đến các yếu tố xã hội và tâm lý ảnh hưởng đến niềm tin và thái độ cốt lõi của họ và cuối cùng xác định hành vi tuân thủ của họ (Devos, 2013). Thông qua phương pháp tiếp cận xã hội và tâm lý, Roth và cộng sự (1989) định nghĩa tuân thủ thuế là “báo cáo chính xác về nghĩa vụ thuế” và Kirchler (2007) xác định đó là “sự sẵn sàng nộp thuế của người nộp thuế”. Jayawardane (2015) đề xuất rằng để hiểu sâu hơn về hành vi tuân thủ thuế, các nhà nghiên cứu nên xem xét các yếu tố quyết định tâm lý xã hội, liên quan đến các yếu tố cá nhân, xã hội và chính phủ.

Bên cạnh đó, về cơ bản các nghiên cứu về tuân thủ thuế giải thích các vấn đề về tuân thủ thuế (hoặc không tuân thủ) bằng cách sử dụng các lý thuyết dựa trên kinh tế hoặc/và lý thuyết dựa trên tâm lý học (James và cộng sự, 2001; James và Alley, 2006; Kirchler và cộng sự, 2010). Sự khác biệt trong cả hai cách tiếp cận liên quan đến khái niệm chênh lệch thuế trong cách tiếp cận kinh tế và sự tuân thủ tự nguyện trong cách tiếp cận dựa trên tâm lý học hay còn được gọi là cách tiếp cận hành vi (James và cộng sự, 2001; James và Alley, 2006; Kirchler và cộng sự, 2010). Vì vậy, các nhà khoa học trong các nghiên cứu về tuân thủ thuế giải thích tuân thủ thuế là một vấn đề của tính hợp lý về kinh tế hoặc/và hợp tác về hành vi. Do đó, với mục tiêu nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu khác nhau thì các nhà nghiên cứu thường lựa chọn một hoặc một số lý thuyết làm nền tảng cho nghiên cứu của mình khi thực hiện hướng nghiên cứu về tuân thủ thuế. Các lý thuyết thường được các tác giả áp dụng cho nghiên cứu của mình, được trình bày ở bảng dưới đây:

Bảng 1.1. Lý thuyết, mô hình nền tảng trong các nghiên cứu về hành vi TTT


Lý thuyết/

mô hình

Nội dung chính của lý thuyết/ mô hình

Công trình nghiên cứu áp dụng lý

thuyết theo tên tác giả/ nhóm tác giả

Mô hình của Allingham và Sandmo (1972) về tuân thủ thuế

TTT là quyết định kê khai thu nhập thực tế với CQT trong điều kiện không chắc chắn. NNT có thể quyết định kê khai thuế để hướng đến số tiền nộp thuế đúng (bằng) hoặc ít hơn số tiền thuế phải nộp. Quyết định của họ phụ thuộc vào xác suất bị phát hiện và tỷ lệ phạt

1. Park, C.-G. và Hyun, J. K. (2003)

2. Alm và cộng sự (2010)

3. Casagrande và cộng sự (2015)

4. Alm và cộng sự (2016)

5. Choo và cộng sự (2016)

6. Robbins, B. G., và Kiser, E. (2020)

Lý thuyết

công bằng

Mọi người sẽ tuân thủ luật pháp nếu họ

nhận thức quá trình xây dựng và thực thi

1. Jimenez và Iyer, (2016)

2. Abba Ya’u, Natrah Saad (2019)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 256 trang tài liệu này.

Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tuân thủ thuế của hộ kinh doanh cá thể trong các làng nghề ở Việt Nam - 3

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 18/03/2023