này có nghĩa, chất liệu kinh doanh của ngân hàng là tiền tệ, mà tiền tệ là một công cụ được Nhà nước sử dụng để quản lý vĩ mô nền kinh tế. Do đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ của NHTM sẽ được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ hơn so với các hoạt động kinh tế khác.
c. Thực hiện các dịch vụ trung gian: Ngoài hai hoạt động cơ bản là hoạt động huy động vốn và hoạt động sử dụng vốn, NHTM cũng thực hiện các dịch vụ trung gian cho khách hàng của mình. Hoạt động trung gian gồm nhiều loại dịch vụ khác nhau như: dịch vụ thu hộ chi hộ cho khách hàng có tài khoản tiền gửi tại ngân hàng; dịch vụ chuyển khoản từ tài khoản này đến tài khoản khác trong cùng một ngân hàng hay ở hai ngân hàng khác nhau; dịch vụ tư vấn cho khách hàng các vấn đề tài chính; dịch vụ giữ hộ các chứng từ, vật quý giá; dịch vụ chi lương cho các doanh nghiệp có nhu cầu; dịch vụ khấu trừ tự động… Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ ngân hàng theo đó cũng phát triển theo để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của công chúng. Thực hiện nghiệp vụ trung gian mang tính dịch vụ sẽ đem lại cho NHTM những khoản thu nhập khá quan trọng.
Ba lĩnh vực hoạt động trên là các hoạt động cơ bản của NHTM. Ba hoạt động đó có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau phát triển, tạo uy tín cho NHTM. Sự kết hợp đồng bộ đó tạo thành quy luật trong hoạt động của NHTM và tạo thành xu hướng kinh doanh tổng hợp đa năng của các NHTM.
1.2.2. Khái niệm, bản chất và đặc trưng cơ bản hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thương mại
1.2.2.1. Khái niệm, bản chất hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thương mại
Luật Cạnh tranh 2004 không có quy định nào định nghĩa cụ thể về hành vi CTKLM của NHTM, tuy nhiên, Điều 39 Luật Cạnh tranh 2004 đã quy định chi tiết các hành vi được coi là CTKLM nói chung, bao gồm: (i) Chỉ dẫn gây
nhầm lẫn; (ii) Xâm phạm bí mật kinh doanh; (iii) Ép buộc; (iv) Gièm pha doanh nghiệp khác; (v) Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;
(vi) Quảng cáo nhằm CTKLM; (vii) Khuyến mại nhằm CTKLM; (viii) Phân biệt đối xử của hiệp hội; (ix) Bán hàng đa cấp bất hợp pháp; và (x) Các hành vi CTKLM khác do Chính phủ quy định. Các hành vi này phổ biến trong hoạt động kinh doanh nói chung. Hoạt động ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh đặc thù, đòi hỏi phải có những hướng dẫn cụ thể riêng về vấn đề này. Mặc dù vậy, cho đến thời điểm hiện nay, mới chỉ có một vài quy định rải rác trong các văn bản pháp luật về mà chưa có những quy định chi tiết mang tính đặc thù cho lĩnh vực ngân hàng.
Luật các Tổ chức tín dụng 2010 chỉ có duy nhất một quy định liên quan đến CTKLM của NHTM, đó là quy định về hợp tác và cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng (Điều 9). Theo đó, TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được hợp tác và cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác theo quy định của pháp luật. Nghiêm cấm hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc hành vi CTKLM có nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của hệ thống các TCTD, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và giao cho Chính phủ quy định cụ thể các hành vi CTKLM trong hoạt động ngân hàng và hình thức xử lý các hành vi này.
Trước đó, Luật các Tổ chức tín dụng 1997 (Điều 16) đã liệt kê những hành vi cạnh tranh bất hợp pháp bao gồm: (i) Khuyến mại bất hợp pháp; (ii) Thông tin sai sự thật làm tổn hại lợi ích của các TCTD khác và của khách hàng; (iii) Đầu cơ lũng đoạn tỷ giá ngoại tệ, vàng và thị trường tiền tệ; (iv) Các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp khác. Đây là danh mục các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp chưa đầy đủ và được thiết kế theo hướng mở, tuy nhiên NHNN cũng chưa có văn bản nào để cụ thể hóa điều luật trên.
Có thể bạn quan tâm!
- Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam - 1
- Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam - 2
- Khái Niệm Và Đặc Điểm Của Hành Vi Cạnh Tranh Không Lành Mạnh
- Hậu Quả Do Các Hành Vi Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Của Ngân Hàng Thương Mại Gây Ra
- Những Đặc Trưng Cơ Bản Của Pháp Luật Về Hành Vi Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Của Ngân Hàng Thương Mại
- Thực Trạng Các Quy Định Của Luật Các Tổ Chức Tín Dụng Và Các Văn Bản Hướng Dẫn Thi Hành Về Hành Vi Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Của Ngân Hàng Thương
Xem toàn bộ 133 trang tài liệu này.
Từ các quy định mang tính nguyên tắc trên đây, có thể rút ra những dấu hiệu về hành vi CTKLM của NHTM như sau:
- Đó là hành vi của các NHTM phát sinh trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, trái với đạo đức thông thường trong kinh doanh;
- Gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của NHTM khác hoặc với khách hàng. Về dấu hiệu này, cần quy định hết sức thận trọng, đặc biệt là xác định như thế nào là thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại, ai là người chứng minh thiệt hại.
+ Thiệt hại ở đây được hiểu là những thiệt hại về vật chất, tức là ảnh hưởng tới doanh thu, khả năng sinh lợi trong hoạt động của đối thủ cạnh tranh và những tổn hại về uy tín của đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Về dấu hiệu có thể gây thiệt hại cần xem xét kỹ lưỡng, vì hoạt động ngân hàng rất nhạy cảm với những thông tin không tốt, những thông tin này có thể “giết chết” một NHTM cũng như gây tác động xấu đối với xã hội, đặc biệt là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền. Do vậy, khi có dấu hiệu có thể gây thiệt hại, đối thủ cạnh tranh cần tìm đến một giải pháp hỗ trợ từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tránh thiệt hại cho cả hai bên cũng như đối với nền kinh tế và xã hội;
+ Người phải chứng minh mức độ thiệt hại là đối thủ cạnh tranh của NHTM. Cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình thực thi công vụ nếu phát hiện ra hành vi CTKLM thì phải báo cáo kịp thời đến NHNN, Cục Quản lý cạnh tranh Bộ Công Thương để có biện pháp phối hợp xử lý;
+ Thông thường, hành vi CTKLM có mức độ ảnh hưởng tiêu cực trên thị trường hẹp, thường chỉ tác động lên một số chủ thể nhất định mà không ảnh hưởng đến một khu vực thị trường rộng như hành vi hạn chế cạnh tranh. Tuy nhiên, đối với lĩnh vực ngân hàng, do sự khác biệt trong hoạt động nên việc xác định mức độ ảnh hưởng của hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân
hàng cần được hiểu là trên phạm vi rộng, trên toàn bộ thị trường ngân hàng, bởi các lý do sau:
Thứ nhất, hoạt động ngân hàng là hoạt động rủi ro cao và mang tính dây chuyền. Do vậy, hậu quả của mà hành vi CTKLM gây ra thường là rất lớn, trên diện rộng, và có nguy cơ ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống ngân hàng.
Thứ hai, hậu quả của CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng thường diễn ra rất nhanh chóng và khắc phục rất khó khăn. Hoạt động ngân hàng gắn liền với phạm trù “niềm tin” – niềm tin của người gửi tiền vào ngân hàng. Một khi niềm tin vào một ngân hàng bị một hành vi CTKLM làm cho đổ vỡ thì hậu quả diễn ra rất nhanh chóng và phải mất nhiều thời gian mới phục hồi lại được.
Thứ ba, CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng có tác động nhất định đến nền kinh tế. Hệ thống ngân hàng được coi là xương sống của nền kinh tế, là nơi tập trung những nguồn vốn lớn của xã hội. Ngân hàng là trung gian giữa người thừa vốn và người thiếu vốn. Vậy nên, một khi ngân hàng bị ảnh hưởng bởi CTKLM thì cả người thừa vốn và người thiếu vốn sẽ bị ảnh hưởng theo. Bên cạnh đó, mọi biến động của mỗi mắt xích trong hệ thống ngân hàng đều gây ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế nói chung và từng lĩnh vực có liên quan nói riêng.
Thứ tư, hoạt động ngân hàng mang tính chuyên ngành cao. Các hành vi CTKLM cũng vì vậy mà mang tính chất chuyên ngành và tinh vi hơn [12].
Tóm lại, các dấu hiệu hành vi CTKLM của NHTM bao gồm: (i) Cạnh tranh giữa các NHTM với nhau hoặc với tổ chức khác có hoạt động ngân hàng;
(ii) Hành vi trái với chuẩn mực kinh doanh ngân hàng; (iii) Hành vi gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại cho NHTM khác, ảnh hưởng đến an toàn hệ thống ngân hàng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của khách hàng. Trong bối cảnh chưa có các văn bản của NHNN quy định chi tiết về CTKLM giữa các NHTM, việc chỉ ra những dấu hiệu chung của hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân
hàng để giúp nhận diện được các hành vi này là điều cần thiết. Để làm được điều đó, có thể sử dụng các dấu hiệu CTKLM được ghi nhận ở trong Luật Cạnh tranh trên cơ sở có tính đến các đặc thù của lĩnh vực ngân hàng.
1.2.2.2. Đặc trưng cơ bản hành vi cạnh tranh không lành mạnh của ngân hàng thương mại
Giống như bất cứ loại hình doanh nghiệp nào trong kinh tế thị trường, các NHTM trong kinh doanh luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, không chỉ từ các NHTM khác, mà từ tất cả các TCTD đang cùng hoạt động kinh doanh trên thương trường với mục tiêu là thu hút khách hàng, tăng thị phần tín dụng cũng như mở rộng cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế. Tuy vậy, do những đặc điểm chuyên biệt của mình, so với sự cạnh tranh của các tổ chức kinh tế khác, hành vi CTKLM của NHTM có những đặc thù nhất định.
Thứ nhất, về tính chất cạnh tranh, các NHTM luôn cạnh tranh gay gắt nhưng cạnh tranh trong sự hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hướng tới một thị trường lành mạnh, tránh khả năng xảy ra rủi ro hệ thống.
Hoạt động kinh doanh của các NHTM có liên quan đến tất cả các tổ chức kinh tế, chính trị – xã hội, đến từng cá nhân thông qua các hoạt động huy động tiền gửi tiết kiệm, cho vay cũng như các loại hình dịch vụ tài chính khác; đồng thời, trong hoạt động kinh doanh của mình, các NHTM cũng đều mở tài khoản cho nhau để cùng phục vụ các đối tượng khách hàng chung. Do đó, nếu như một NHTM bị khó khăn trong kinh doanh, có nguy cơ đổ vỡ, thì tất yếu sẽ tác động dây chuyền đến gần như tất cả các NHTM khác, trở thành gánh nặng cho nhiều tổ chức kinh tế và dân chúng trên địa bàn. Chính vì vậy, trong kinh doanh, các NHTM vừa phải cạnh tranh để từng bước mở rộng khách hàng, mở rộng thị phần, nhưng cũng không thể cạnh tranh bằng mọi giá, sử dụng mọi thủ đoạn, bất chấp pháp luật để thôn tính đối thủ của mình,
bởi vì, nếu đối thủ là các NHTM khác bị suy yếu dẫn đến sụp đổ, thì những hậu quả đem lại thường là rất to lớn, thậm chí dẫn đến đổ vỡ luôn chính NHTM này do tác động dây chuyền. Hay nói cách khác, các NHTM trong kinh doanh luôn vừa phải cạnh tranh lẫn nhau để dành giật thị phần, nhưng luôn phải hợp tác với nhau, nhằm hướng tới một môi trường lành mạnh để tránh rủi ro hệ thống.
Đặc điểm này dẫn đến các đối thủ cạnh tranh trên thị trường dịch vụ ngân hàng thường có mối quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình tác nghiệp kinh doanh. Chính sự liên kết mang tính tự nhiên giữa các đối thủ cạnh tranh trên thị trường dịch vụ ngân hàng khiến cho mối quan hệ cạnh tranh giữa họ trở nên ít khốc liệt hơn.
Thứ hai, mặc dù tính chất cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ít khốc liệt hơn so với các lĩnh vực kinh doanh khác, song sự cạnh tranh lại đòi hỏi những chuẩn mực cao hơn.
Sở dĩ như vậy là do hoạt động của các NHTM liên quan đến lưu chuyển tiền tệ, không chỉ trong phạm vi một nước, mà có liên quan đến nhiều nước để hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế đối ngoại, do vậy, kinh doanh trong hệ thống NHTM chịu sự chi phối của nhiều yếu tố trong nước và quốc tế, như: môi trường pháp luật, tập quán kinh doanh của các nước, các thông lệ quốc tế… đặc biệt là, nó chịu sự chi phối mạnh mẽ của điều kiện hạ tầng cơ sở tài chính, trong đó công nghệ thông tin đóng vai trò cực kỳ quan trọng, có tính chất quyết định đối với hoạt động kinh doanh của các ngân hàng này. Điều đó cũng có nghĩa là, sự cạnh tranh trong hệ thống các NHTM trước hết phải chịu sự điều chỉnh bởi rất nhiều thông lệ, tập quán kinh doanh tiền tệ của các nước, sự cạnh tranh trước hết phải dựa trên nền tảng kỹ thuật công nghệ đáp ứng được yêu cầu của hoạt động kinh doanh tối thiểu.
Bên cạnh đó, đặc trưng nổi bật về khách hàng của các NHTM là rất dễ
thay đổi quan hệ với ngân hàng, mức độ trung thành của khách hàng phụ thuộc vào sự đối xử của NHTM với họ, mà cao nhất là lợi ích trực tiếp thu được từ quan hệ giao dịch với ngân hàng. Do đó, để làm hài lòng các “thượng đế” của mình, các NHTM cần cung cấp các dịch vụ nhanh chóng, chính xác, thuận tiện, bảo mật và đặc biệt quan trọng là có tính an toàn. Điều này đòi hỏi ngân hàng phải có cơ sở hạ tầng vững chắc, hệ thống công nghệ hiện đại; hệ thống lưu trữ, quản lý toàn bộ các thông tin, dữ liệu của khách hàng một cách đầy đủ mà vẫn có khả năng truy xuất một cách dễ dàng. Ngoài ra, do dịch vụ tiền tệ ngân hàng có tính nhạy cảm nên để tạo được sự tin tưởng của khách hàng chọn lựa sử dụng dịch vụ của mình, ngân hàng phải xây dựng được uy tín và gia tăng giá trị thương hiệu theo thời gian. Rõ ràng là, sự cạnh tranh của các NHTM loại hình cạnh tranh bậc cao, đòi hỏi những chuẩn mực khắt khe hơn bất cứ loại hình kinh doanh nào khác.
Thứ ba, số lượng các đối thủ cạnh tranh trong thị trường dịch vụ ngân hàng thường có giới hạn và sự thay đổi số lượng này là rất khó khăn và hạn chế do các rào cản gia nhập ngành cũng như các rào cản rút lui.
Do đặc thù trong hoạt động ngân hàng, nhằm tránh cho nền kinh tế và công chúng khỏi những tổn thất do NHTM hoạt động yếu kém, không rõ ràng, minh bạch, chính quyền đã có sự kiểm soát chặt chẽ đối với việc thành lập hay chấm dứt hoạt động của một tổ chức kinh doanh ngân hàng. Việc cho phép một tổ chức được tham gia vào hoạt động kinh doanh ngân hàng hoặc cho phép các tổ chức kinh tế này được rút lui khỏi thị trường dịch vụ ngân hàng đòi hỏi phải tuân thủ một quy trình kiểm soát chặt chẽ với những điều kiện ngặt nghèo. Các rào cản rút lui cũng giống như các rào cản gia nhập ngành, là các yếu tố khiến cho việc rút lui khỏi ngành của các ngân hàng trở nên khó khăn và vì thế có thể làm cho mức độ cạnh tranh trở nên gay gắt hơn
– vì không thể rời bỏ ngành, nên ngân hàng buộc phải cạnh tranh để tồn tại. Có thể nói, sự khó khăn và tính hạn chế trong khả năng và cơ hội gia nhập
hay rút lui khỏi thị trường dịch vụ ngân hàng là một trong những dấu hiệu có tính đặc thù của môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng.
Thứ tư, chất liệu kinh doanh của ngân hàng là tiền tệ, mà tiền tệ là một công cụ được Nhà nước sử dụng để quản lý vĩ mô nền kinh tế. Do đó, chất liệu này được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ. Hơn nữa, do hoạt động của các NHTM có liên quan đến tất cả các chủ thể, đến mọi mặt hoạt động kinh tế – xã hội, cho nên, để tránh sự hoạt động của các NHTM mạo hiểm gây nguy cơ đổ vỡ hệ thống trong thị trường dịch vụ ngân hàng, mặc dù vẫn chấp nhận và khuyến khích sự cạnh tranh giữa các đối thủ tham gia thị trường nhưng vì mục tiêu giữ gìn sự ổn định của nền kinh tế và quyền lợi của công chúng gửi tiền hay các chủ thể vay tiền, Nhà nước thông qua cơ quan đặc biệt là Ngân hàng Trung ương có thể can thiệp vào quá trình cạnh tranh này bằng cách kiểm soát và giám sát chặt chẽ thị trường thông qua việc thực thi những chính sách đặc thù như thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, đưa ra hệ thống cảnh báo sớm để phòng ngừa rủi ro hay chính sách kiểm soát đặc biệt. Thực tiễn đã chỉ ra những bài học đắt giá, khi mà Ngân hàng Trung ương thờ ơ trước những diễn biến bất lợi của thị trường đã dẫn đến hậu quả là sự đổ vỡ của thị trường tài chính – tiền tệ làm suy sụp toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, sự can thiệp từ phía công quyền khiến cho giới hạn cạnh tranh giữa các đối thủ trên thị trường dịch vụ ngân hàng có phần bị thu hẹp [47]. Những quy định đặc thù của “luật chơi” trong thị trường dịch vụ ngân hàng không cho phép các đối thủ cạnh tranh được toàn quyền hành xử theo ý chí của riêng mình chỉ cốt để nhằm thoả mãn những lợi ích tư của chính họ.
Tóm lại, có thể nhận thấy, hành vi CTKLM của NHTM vừa có những điểm tương đồng, vừa có những đặc thù so với nội hàm nguyên thuỷ của khái niệm cạnh tranh trong kinh tế học. Chính những điểm khác biệt này đã có những ảnh hưởng nhất định đến nội dung điều chỉnh pháp luật đối với các hành vi CTKLM của NHTM ở Việt Nam.