Đánh Giá Chung Về Thực Trạng Quy Định Pháp Luật Về Chống Cạnh Tranh Không Lành Mạnh Trong Hoạt Động Ngân Hàng Của Các Ngân Hàng Thương Mại Ở Việt

105


­ Nội dung xử lý vi phạm pháp luật cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định từ Điều 28 đến Điều 36 Nghị định 71/2014/NĐ­ CP ngày 21/07/2014 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh, song mức phạt tiền còn khá thấp.

­ Một trong những nguyên tắc được quy định để xử lý vi phạm pháp luật cạnh tranh là “Việc xử lý hành vi vi phạm quy định về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh phải tuân theo các trình tự, thủ tục trong tố tụng cạnh tranh được quy định tại Chương V của Luật Cạnh tranh và các quy định tại Chương III của Nghị định số 116/2005/NĐ­CP ngày 15 tháng 9 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh” (Điều 43 Nghị định 71/2014/NĐ­CP ngày 21/07/2014 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh), song nội dung quy định tại chương III của Nghị định số 116/2005/NĐ­CP ngày 15 tháng 9 năm 2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh và các quy định tại Nghị định này lại thiên về hướng dẫn thủ tục tố tụng cạnh tranh đối với hành vi hạn chế cạnh tranh.

Thực tiễn pháp lý này sẽ phát sinh vấn đề là, nếu các quy định về tố tụng cạnh tranh giải quyết không rõ ràng về thủ tục tố tụng cạnh tranh không lành mạnh (thủ tục tố tụng cạnh tranh) so với thủ tục xử phạt vi phạm hành chính (thủ tục hành chính) thì sẽ khó có thể phân biệt rõ ràng thẩm quyền của Cơ quan quản lý Cạnh tranh và Ngân hàng Nhà nước khi xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Bởi lẽ, về bản chất, hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói chung, hành vi cạnh tranh

không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng nói riêng không chỉ là hành vi vi

phạm pháp luật mà nó còn bao hàm cả “trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh”. Do vậy, trọng tâm của thủ tục tố tụng cạnh tranh nhằm giải quyết vụ việc liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh là cơ quan quản lý cạnh tranh phải có thẩm quyền giải thích, xác định một hành vi cạnh tranh có

106


phải là cạnh tranh không lành mạnh hay không. Cơ quan quản lý cạnh tranh chỉ nên xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được giải thích là “trái với

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 203 trang tài liệu này.

các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh”. Những hành vi cạnh

tranh không lành mạnh trái pháp luật được quy định trong văn bản pháp luật nên trao về cho cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành xử phạt cho phù hợp với tính chất của cơ quan tố tụng cạnh tranh của Cơ quan quản lý cạnh tranh.

Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng của các Ngân hàng thương mại Việt Nam - 14

Ba là, nội dung pháp luật về xử lý vi phạm Luật Cạnh tranh liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh chưa phân định rõ thẩm quyền của Cơ quan quản lý Cạnh tranh với cơ quan nhà nước chuyên ngành khi xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng.

Theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang bộ của Chính phủ và Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Một trong những nội dung quản lý nhà

nước về

tiền tệ

và hoạt động ngân hàng “Kiểm tra, thanh tra, giám sát ngân

hàng; xử lý vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật” (Khoản 11 Điều 4 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010). Trực tiếp thực hiện việc kiểm tra, thanh tra, giám sát ngân hàng là Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng hướng tới mục đích “góp phần bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng và hệ thống tài chính; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền và khách hàng của tổ chức tín dụng; duy trì và nâng cao lòng tin của công chúng đối với hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm việc chấp hành chính sách, pháp luật về tiền tệ và ngân hàng; góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng” (Điều 50 Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010) thì việc giám sát hoạt động cạnh tranh của các tổ chức tín dụng cũng phải được coi là một nội dung của giám sát ngân hàng. Chính vì vậy, sự tham gia của Cơ quan

107


Thanh tra, Giám sát ngân hàng góp phần quan trọng vào việc phát hiện và xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các tổ chức tín dụng.

Theo quy định tại Nghị định 06/2006/NĐ­CP ngày 09/01/2006 của Chính

phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công thương. Theo đó, Cục Quản lý cạnh tranh là tổ chức trực thuộc Bộ Công thương có chức năng giúp Bộ trưởng Bộ Công thương thực hiện quản lý nhà nước về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp, áp dụng các biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam; bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; phối hợp với các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng trong việc đối phó với các vụ kiện trong thương mại quốc tế liên quan đến bán phá giá, trợ cấp và áp dụng các biện pháp tự vệ. Về cạnh tranh, Cục Quản lý cạnh tranh “Tổ chức điều tra xử lý

đối với các vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành

mạnh và các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh khác theo quy định của pháp luật” (Điểm b Khoản 4 Điều 2 Nghị định 06/2006/NĐ­CP ngày 09/01/2006 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công thương).

Như vậy, Cơ quan Thanh tra, Giám sát ngân hàng và Cục Quản lý Cạnh

tranh có cùng chức năng là bảo vệ trật tự cạnh tranh, quyền lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia cạnh tranh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Song với hoạt động ngân hàng cần phải được giám sát một cách chặt chẽ để có thể phát hiện sớm và xử lý kịp thời các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Với chức năng, nhiệm vụ được giao Cơ quan Thanh tra, Giám sát ngân hàng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đóng góp phần quan trọng vào việc thiết lập, duy trì môi trường cạnh tranh ngân hàng an toàn, lành

mạnh. Tuy nhiên, để nhận diện, xác định tính không lành mạnh trong hành vi

cạnh tranh của các tổ chức tín dụng cần phải có sự phối hợp chặt chẽ với Cục Quản lý Cạnh tranh, bởi lẽ, đây là cơ quan được giao nhiệm vụ điều tra xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh nên Cơ quan này có nhiều kinh nghiệm trong

108


việc xác định tính không lành mạnh trong hành vi cạnh tranh của các tổ chức tín

dụng. yêu cầu này chưa được thể hiện trong các văn bản pháp luật về chống

cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng ở Việt Nam.

Bn là, các quy định về giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra chưa đáp ứng được yêu cầu bảo đảm quyền

yêu cầu bồi thường thiệt hại của người bị xâm phạm là do sự không rõ ràng

trong quy định về giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra. Điều này được thể hiện trên các khía cạnh:

­ Theo quy định tại Khoản 3 Điều 117 Luật Cạnh tranh thì “Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật”. Với quy định này của Luật Cạnh tranh thì việc giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại được áp dụng theo quy định của pháp luật là chung chung. Bất cập này đã được khắc phục bởi hướng dẫn tại Điều 6 Nghị định 71/2014/NĐ­CP ngày 21/07/2014 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh quy định: “1. Tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác thì phải bồi thường. 2. Việc bồi thường thiệt hại quy định tại khoản 1 Điều này được thực hiện theo các quy định của pháp luật về dân sự”.

Ngoài ra, Luật Cạnh tranh cũng chưa quy định rõ việc giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra là thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan quản lý cạnh tranh hay tòa án nhân dân. Điều này đã dẫn đến cách hiểu không thống nhất giữa các cấp tòa án khi giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra [19, tr.68­ 69].

­ Theo quy định pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh, cơ quan quản lý cạnh tranh không có quyền giải quyết yêu cầu bồi thường

109


thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra (Điều 40

Nghị

định

71/2014/NĐ­CP ngày 21/07/2014 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Cạnh

tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh). Việc thiết kế quy định về xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại Nghị định 71/2014/NĐ­CP ngày 21/07/2014 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh vẫn duy trì theo hướng cơ quan quản lý cạnh tranh có thẩm quyền xử lý (mà thực chất là xử phạt hành chính) đối với các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh không lành mạnh. Quyền giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án, không phụ thuộc vào việc quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại này có xuất phát từ hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã bị xử lý bởi cơ quan quản lý cạnh tranh hay không. Theo nghiên cứu của các tác giả Đỗ Văn Đại và Nguyễn Thị Hoài Trâm (2012) thì trong thực tiễn có nhiều cơ quan nhà nước có thể xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong từng lĩnh vực cụ thể [19, tr.68­69].

3.2.4. Đánh giá chung về thực trạng quy định pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam

Thnht, hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng thương mại được bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật (bao gồm các quy phạm pháp luật quốc tế và các quy phạm pháp luật trong nước) và hệ thống quy phạm xã hội (quy phạm đạo đức kinh doanh ngân hàng và tập quán thương mại liên quan đến hoat động ngân hàng).

Nội dung quy phạm pháp luật quốc tế điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng thương mại được thể hiện rõ trong các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, nhất là cam kết khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, cam kết mở cửa thị trường

110


dịch vụ khu vực ASEAN và Hiệp định Thương mại Việt Nam – Kỳ. Quy phạm

pháp luật quốc tế điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt

động ngân hàng của các ngân hàng thương mại được thể hiện thông qua nghĩa vụ của Việt Nam trong việc bảo đảm môi trường cạnh tranh bình đẳng, không phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.

Đối với hệ

thống quy phạm pháp luật trong nước về

chống cạnh tranh

không lành mạnh của các ngân hàng thương mại thì Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành là “hạt nhân trung tâm” của pháp luật chống hành vi không lành mạnh trên thị trường nói chung, thị trường ngân hàng nói riêng. Với tiến trình mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng hiện nay, tình hình cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại sẽ ngày càng gay gắt hơn, trong đó, các thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng thương mại cũng xuất hiện như một tất yếu khách quan, với tính chất ngày càng tinh vi, phức tạp. Việc “nhập khẩu”, cung ứng các dịch vụ ngân hàng mới vào thị trường Việt Nam cũng là điều kiện, tiền đề cho các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đặc biệt là hành vi nói xấu, gièm pha chất lượng dịch vụ ngân hàng của đối thủ cạnh tranh.

Các chuẩn mực đạo đức kinh doanh, tập quán thương mại trong hoạt động ngân hàng được sử dụng trong trường hợp pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng chưa có quy định hoặc quy định không rõ tiêu chí để xác định tính không lành mạnh trong hoạt động cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Đây là nguồn luật bổ sung quan trọng cho những “thiếu khuyết” của các quy phạm pháp luật.

Thhai, pháp luật chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng đã giải quyết được khá nhiều nội dung liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng thương mại như:

111


­ Giải quyết mối quan hệ giữa Luật Cạnh tranh và Luật các Tổ chức tín dụng khi điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng thương mại;

­ Thay đổi quan niệm từ cạnh tranh bất hợp pháp sang cạnh tranh không lành mạnh;

­ Bước đầu xác định hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng là hành vi tiêu cực cần ngăn cấm để bảo vệ các chủ thể tham gia thị trường, người tiêu dùng và lợi ích của Nhà nước;

­ Đã có quy định thẩm quyền quy định chi tiết hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng và biện pháp xử lý đối với những hành vi này.

Thba, mặc dù vậy, pháp luật chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng vẫn còn nhiều bất cập. Cụ thể là:

­ Pháp luật chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng mới chỉ dừng lại ở “nguyên tắc chung” được quy định trong Luật các Tổ chức tín dụng, nên về bức tranh toàn cảnh pháp luật chống hành vi cạnh tranh

không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng vẫn “còn trống trải” nên khi áp

dụng pháp luật vào giải quyết vụ việc cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải áp dụng quy định chung

trong Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành để giải quyết nên

không phản ánh hết được nét đặc thù trong quy định pháp luật chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng.

­ Pháp luật chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng chưa có quy định về thẩm quyền và sự tham gia của Ngân hàng Nhà nước trong thủ tục điều tra xử lý đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng cũng như chưa có quy chế phối hợp giữa các cơ quan này trong điều tra xử lý vụ việc cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Nhiệm vụ này hiện nay được giao cho Cục Quản lý Cạnh tranh – cơ quan vừa có chức năng quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực cạnh tranh, vừa

112


thực hiện chức năng của cơ quan tiến hành tố tụng trong thủ tục tố tụng cạnh tranh và chỉ giải quyết vụ việc cạnh tranh không lành mạnh.

­ Trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng thương mại chưa được quy định rõ ràng và dường như nó thiên về xử phạt vi phạm hành chính, Cục Quản lý Cạnh tranh chưa được giao thẩm quyền giải thích, xác định tính không lành mạnh của hành vi cạnh tranh của các tổ chức tín dụng, trong khi đó, vai trò của tòa án nhân dân trong giải quyết vụ việc cạnh tranh không lành mạnh vẫn còn rất mờ nhạt; sự tham gia của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thủ tục giải quyết vụ việc cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng thương mại chưa được quy định rõ ràng; chưa có sự phân định thẩm quyền về xử lý giữa Ngân hàng Nhà nước và Cơ quan quản lý cạnh tranh khi xử lý các hành vi được quy định ở cả Nghị định quy định về xử lý vụ việc cạnh tranh và Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.

3.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về chống cạnh tranh không lành


mạnh trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng thương mại Nam

ở Việt

3.3.1. Diễn biến cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam

Có thể

khẳng định rằng, thị

trường ngân hàng Việt Nam đang trong giai

đoạn tái cấu trúc để phát triển theo hướng thị trường và tình hình cạnh tranh trên thị trường ngày càng thực chất hơn. Các ngân hàng thương mại cạnh tranh với nhau về chất lượng dịch vụ ngân hàng và những tiện ích từ dịch vụ ngân hàng; cạnh tranh bằng việc tăng cường các chương trình khuyến mại, cạnh tranh thông

qua việc mở rộng thị phần thông qua việc mở thêm chi nhánh, văn phòng đại

diện… Nhìn chung, hoạt động cạnh tranh của các ngân hàng thương mại được thực hiện đúng luật và hiện tại chưa có vụ việc cạnh tranh không lành mạnh

Xem tất cả 203 trang.

Ngày đăng: 09/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí