gia, các dự án quan trọng quốc gia, các chương trình mục tiêu và dự án trọng điểm, có ý nghĩa lớn, lan tỏa đến phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và liên vùng, liên địa phương.
- Đối với các nguồn vốn vay để đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội: phải được kiểm soát một cách chặt chẽ về mục tiêu, hiệu quả đầu tư, kế hoạch trả nợ và những tác động của vay vốn đến ổn định kinh tế vĩ mô. Nghiêm túc quán triệt tinh thần không vay vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng với bất cứ giá nào.
- Mở rộng các hình thức đầu tư, tiếp tục rà soát để đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, thông thoáng, ổn định chính sách và pháp luật, khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước bỏ vốn đầu tư kinh doanh, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Thực hiện chính sách giá và phí các dịch vụ công theo nguyên tắc của cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
- Tạo đột phá thu hút vốn đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP). Hoàn thiện thể chế và tăng cường các biện pháp khuyến khích đầu tư theo hình thức PPP theo hướng minh bạch, ổn định, bình đẳng. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến thông tin về đầu tư theo hình thức PPP.
- Đẩy mạnh thực hiện chủ trương xã hội hóa đối với các dịch vụ công, đặc biệt trong các lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân, giáo dục đào tạo, văn hóa, thể thao, các công trình dự án cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt của người dân ở nông thôn.
+ Phân bổ vốn đầu tư công hợp lý, kết hợp hài hòa giữa ngành, lĩnh vực đáp ứng định hướng lớn trong phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, giải quyết vấn đề bất cập mất cân đối giữa các ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ. Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng, giữa các vùng để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương và ứng phó hiệu quả với thiên tai, biến đổi khí hậu; tạo không gian phát triển thống nhất trong vùng và cả nước.
+ Đẩy mạnh thực hiện đột phá xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng và đô thị đồng
bộ, hiện đại, xanh, thân thiện với môi trường. Nâng cao chất lượng dịch vụ giao thông đô thị. Cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia phát triển kết cấu hạ tầng. Nâng cao hiệu quả và quản lý đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng.
Có thể bạn quan tâm!
- Một Số Dự Án Đội Giá Thành Và Kéo Dài Thời Gian Điển Hình
- So Sánh Chất Lượng Quản Lý Đầu Tư Công Của Việt Nam Với Một Số Nước Khác
- Các Giải Pháp Nhằm Tăng Cường Quản Lý Đầu Tư Công Tại Việt Nam Đến Năm 2025
- Các giải pháp tăng cường quản lý đầu tư công ở Việt Nam - 15
- Các giải pháp tăng cường quản lý đầu tư công ở Việt Nam - 16
Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.
+ Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và các quy hoạch ngành, quy hoạch vùng lãnh thổ, quy hoạch phát triển đô thị là căn cứ xây dựng các chương trình và kế hoạch đầu tư công trung hạn.
+ Công khai, minh bạch thông tin và tăng cường giám sát, đánh giá, kiểm tra, thanh tra trong quá trình đầu tư công; chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí trong đầu tư công. Trong đó, đặc biệt đề cao vai trò tham gia giám sát của cộng đồng dân cư trong các vùng ảnh hưởng của dự án, nâng cao trách nhiệm giải trình của chủ đầu tư và các bên liên quan đến dự án. Xác định rõ trách nhiệm trực tiếp của người đứng đầu cơ quan, tổ chức đối với hiệu quả kinh tế - xã hội của các dự án đầu tư. Xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, gây thất thoát, lãng phí trong đầu tư công.
3.2. Các giải pháp nhằm tăng cường quản lý đầu tư công tại Việt Nam
3.2.1. Hoàn thiện công tác định hướng quy hoạch Đầu tư công
Thời gian qua, công tác lập, thẩm định, phê duyệt, thực hiện quy hoạch còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém gây khó khăn trong việc điều hành phát triển KT-XH, lãng phí nguồn lực và cản trở việc đầu tư, sản xuất kinh doanh của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân. Quy hoạch được lập quá nhiều nhưng không rõ đối tượng quản lý, thiếu gắn kết, không thống nhất và còn nhiều chồng chéo, mâu thuẫn. Chất lượng quy hoạch thấp, điều chỉnh bổ sung nhiều, không gắn với nhu cầu sử dụng cũng như nguồn lực thực hiện; việc tổ chức lập, thẩm định, phê duyệt và tổ chức thực hiện quy hoạch bị buông lỏng, chưa xử lý kịp thời và thiếu kiên quyết trong chỉ đạo điều hành là nguyên nhân quan trọng dẫn đến phát sinh nhiều dự án Đầu tư công không phù hợp hoặc không thực sự cần thiết trong khi đó Nhà nước vẫn phải bố trí nguồn lực để thực hiện, đầu tư dàn trải, lãng phí, hiệu quả thấp. Bên cạnh đó, rất nhiều dự án được thực hiện bởi nguồn vốn đi vay dẫn đến lãng phí đơn, lãng phí kép nguồn vốn ĐTC nói riêng và tác động tiêu cực đến HQĐT công nói chung.
Do đó, nâng cao chất lượng quy hoạch và siết chặt kỷ luật quy hoạch, thực hiện kế hoạch Đầu tư công là giải pháp cơ bản, có tính lâu dài để nâng cao HQĐT công tại Việt Nam. Để nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, lập kế hoạch Đầu tư công cần phải thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, thực hiện rà soát, đánh giá thực trạng và kết quả cụ thể của công tác thực hiện quy hoạch một số ngành then chốt, các vùng kinh tế để có quy hoạch tổng thể, đồng bộ về ngành, lĩnh vực và vùng miền. Trên cơ sở đó, đưa ra một số danh mục dự án đầu tư quan trọng trên phạm vi cả nước để làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch đầu tư trung và dài hạn và đảm bảo việc thực hiện trên thực tế được gắn với kế hoạch này.
Thứ hai, khi lập quy hoạch, kế hoạch cần phải xác định rất rõ ràng các mục tiêu và ưu tiên chiến lược của ĐTC, để từ đó có cơ sở loại bỏ những đề xuất đầu tư không thích hợp ngay từ đầu. Đồng thời, những đề xuất đầu tư nhưng không có cơ sở rõ ràng và thuyết phục về nguồn lực sẽ không được đưa vào trong quy hoạch. Tất cả các dự án Đầu tư công đều phải nằm trong quy hoạch đã được duyệt mới được đưa vào kế hoạch và làm các thủ tục chuẩn bị đầu tư.
Thứ ba, việc xây dựng, điều hành kế hoạch đầu tư trung hạn phải gắn với kế hoạch tài chính ngân sách trung hạn đảm bảo cho chi tiêu ĐTC được kiểm soát trong giới hạn nguồn lực cho phép, chấm dứt tình trạng phê duyệt, cho phép triển khai các dự án vượt quá khả năng cân đối nguồn lực. Nếu kế hoạch Đầu tư công trung hạn không gắn với kế hoạch tài chính trung hạn sẽ tiếp tục dẫn đến thực trạng đầu tư dàn trải, lãng phí và có những dự án nằm trong kế hoạch đầu tư nhưng không có đầy đủ nguồn lực tài chính để thực hiện do kế hoạch Đầu tư công trung hạn chưa ước tính được các gánh nặng phát sinh lên ngân sách chi thường xuyên (các khoản bảo trì, bảo dưỡng và vận hành dự án sau đầu tư…).
Thứ tư, việc xây dựng kế hoạch Đầu tư công hàng năm phải phù hợp với kế hoạch Đầu tư công trung hạn và khả năng cân đối các nguồn vốn đầu tư; phải phù hợp với khả năng thực hiện và tiến độ giải ngân của từng dự án. Đối với các dự án khởi công mới chỉ bố trí vốn cho các dự án thật sự cần thiết đáp ứng đủ các điều kiện: nằm trong quy hoạch đã được duyệt; đã xác định rõ nguồn vốn và khả năng cân đối vốn; có quyết định đầu tư dự án theo đúng quy định của Luật ĐTC; không bố trí vốn kế hoạch Đầu tư công cho các dự án không thực hiện trình tự
lập, thẩm định, phê duyệt chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư theo quy định của Luật ĐTC.
Thứ năm, thực hiện công khai, công bố rộng rãi các quy hoạch, kế hoạch Đầu tư công theo các phương thức phù hợp đảm bảo thông tin đến được những đối tượng chịu tác động và có chế tài đảm bảo tuân thủ kỷ luật, không cho phép điều chỉnh, bổ sung quy hoạch, kế hoạch nếu như không có luận chứng thực sự xác đáng.
Ngoài ra, cùng với việc thực hiện đồng bộ giải pháp nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, lập kế hoạch Đầu tư công thì tăng cường quản lý, nâng cao hiệu quả các chương trình mục tiêu liên quan đến giảm nghèo góp phần quan trọng nâng cao HQĐT công. Theo đó:
- Thực hiện rà soát lại toàn bộ chương trình mục tiêu quốc gia và các chương trình hỗ trợ có mục tiêu khác liên quan đến xóa đói, giảm nghèo để gom thành một Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững. Trong đó, xác định thứ tự ưu tiên các chương trình, dự án đầu tư và các mục tiêu khả thi, đối tượng cần phải quan tâm đặc biệt để tập trung bố trí nguồn lực thực hiện dứt điểm; tránh đầu tư dàn trải, phân tán nguồn lực, đầu tư manh mún, không hiệu quả như thời gian qua. Một số chương trình có mục tiêu không rõ ràng, có hiệu quả không cao, còn chồng chéo, trùng lặp về nội dung thì cần lựa chọn để lồng ghép với các chương trình khác.
- Tiếp tục dành sự quan tâm đầu tư đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thiết yếu tạo khả năng thuận lợi cho phát triển KT-XH: điện, đường, trường, trạm, thủy lợi, vệ sinh môi trường và hạ tầng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh như: cảng, kho tàng, bến bãi, chợ,... thông tin thị trường nhằm giảm giá thành, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá nông sản. Hỗ trợ đầu tư xây dựng CSHT các huyện nghèo và xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo; các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi, xã biên giới, xã an toàn khu; các thôn, bản đặc biệt khó khăn. Hỗ trợ sản xuất, tăng thu nhập, đa dạng hóa sinh kế, giảm nghèo dựa vào cộng đồng, nhân rộng mô hình giảm nghèo bền vững.
- Tăng cường đầu tư cho giáo dục, đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người nghèo. Hoàn thiện thể chế chính sách công bằng trong tiếp cận giáo dục, đặc biệt trong việc tiếp cận giáo dục tiểu học và trung học cơ sở cho con em các hộ gia đình sinh sống trong các vùng nông thôn, các vùng nghèo, đồng bào các dân tộc ít người.
- Kiểm soát chặt chẽ và quy định rõ ràng hơn trách nhiệm giữa các cấp ngân
sách trong quy trình phân bổ và sử dụng NSNN thực hiện. Tăng cường phân cấp, phân quyền cho địa phương trong việc lựa chọn mục tiêu ưu tiên để thực hiện và phân bổ nguồn lực để thực hiện chương trình nhưng phải đảm bảo nguyên tắc kế hoạch thực hiện các mục tiêu của chương trình mục tiêu, kế hoạch phân bổ và sử dụng nguồn vốn phải được xây dựng và được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của Luật ĐTC. Quy định rõ trách nhiệm và cam kết của các địa phương trong việc huy động và bố trí vốn thực hiện để đảm bảo hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra của chương trình. Xác định rõ vốn hỗ trợ từ NSTW của chương trình chỉ hỗ trợ thực hiện những nhiệm vụ, công việc có tính then chốt, cấp bách nhất của toàn ngành tạo điều kiện ban đầu để địa phương có cơ sở thực hiện.
- Đẩy mạnh thực hiện cơ chế Hợp tác Công – Tư (PPP) trong đầu tư phát triển CSHT trong nông nghiệp, nông thôn và phát triển sản xuất nông nghiệp. Hình thành các quỹ đầu tư, quỹ tương trợ, quỹ hỗ trợ sản xuất để giúp người nghèo có cơ hội tiếp cận các nguồn vốn đầu tư để phát triển sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập hướng tới xóa đói, giảm nghèo. Nguồn vốn đầu tư từ NSNN thì tập trung vào các Chương trình, dự án trọng tâm, trọng điểm xóa đói giảm nghèo, có sức lan tỏa mạnh và lâu dài như: phát triển CSHT đồng bộ, nước sạch, vệ sinh môi trường và đầu tư cho giáo dục, dạy nghề, chăm sóc sức khỏe cho người dân, nhất là đối với những người dân nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số.
- Tăng cường hơn nữa sự tham gia của người dân trong quá trình thực hiện Chương trình. Cần phải có cơ chế đảm bảo để người dân được tham gia vào bàn bạc, quyết định một số nội dung như: quyết định các vấn đề đầu tư; cách thức triển khai; giám sát việc đóng góp, huy động và sử dụng nguồn lực thực hiện Chương trình. Qua đó, tạo động lực và coi người dân là chủ thể chính để thực hiện mục tiêu về giảm nghèo.
3.2.2. Hoàn thiện đánh giá trong thẩm định dự án Đầu tư công
Thứ nhất, xây dựng hệ thống đánh giá kết quả, hiệu quả chương trình, dự án sau khi hoàn thành. Theo đó, tất cả các chương trình, dự án Đầu tư công sau khi hoàn thành đều phải lập báo cáo kết quả đầu tư và HQĐT; thời gian lập báo cáo tùy thuộc vào quy mô, cấp, nhóm dự án. Nội dung tiêu chí đánh giá kết quả, hiệu quả chương trình, dự án sau khi hoàn thành so với nội dung, tiêu chí đã được phê duyệt,
gồm: mục tiêu và lợi ích của dự án sau khi hoàn thành (lợi ích kinh tế-xã hội, lợi ích tài chính); năng lực, tiện ích khai thác phục vụ của dự án; quy mô sử dụng đất đai và các nguồn tài nguyên khác; tác động môi trường, sinh thái của dự án; công nghệ, thiết bị của dự án; thời gian xây dựng công trình; đánh giá chi phí xây dựng công trình; đánh giá về tác động môi trường và hiệu quả xã hội; đánh giá về khả năng thu hồi vốn đầu tư (nếu có); đánh giá về tiếu kiệm trong đầu tư xây dựng công trình. Tùy theo yêu cầu của mỗi ngành, mỗi lĩnh vực có thể bổ sung hoặc giảm bớt các nội dung và tiêu chí đánh giá về kết quả, HQĐT.
Thứ hai, xây dựng hệ thống đánh giá, xếp hạng các nhà thầu (tư vấn, thiết kế, xây dựng). Hệ thống tiêu chí đánh giá năng lực của nhà thầu bao gồm: năng lực tài chính, năng lực quản lý, năng lực kỹ thuật, chỉ tiêu đánh giá kinh nghiệm, kết quả hoạt động (số lượng dự án, công trình đã thực hiện, doanh thu, lỗ, lãi, vốn chủ sở hữu. nợ phải trả); tiêu chí, chấm điểm về vi phạm chủ trương đầu tư, đấu thầu, chất lượng công trình. Thực hiện xác định các tổ chức đánh giá, xếp hạng, công bố công khai hàng năm các nhà thầu hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam và kết quả đánh giá, xếp hạng là một trong tiêu chí xem xét khi nhà thầu tham gia đấu thầu các dự án Đầu tư công khác cũng như kết quả chấm thầu. Việc đánh giá, xếp hạng nhà thầu nên giao cho các tổ chức độc lập có uy tín hoặc tổ chức xã hội nghề nghiệp thực hiện.
Thứ ba, xây dựng hệ thống đánh giá mức độ tín nhiệm về tài chính của các tổ chức, cơ quan, chính quyền địa phương sử dụng vốn ĐTC hàng năm nhằm đánh giá đúng, xếp hạng, công khai năng lực huy động, quản lý, sử dụng vốn ĐTC. Bên cạnh đánh giá của cơ quan quản lý nhà nước về ĐTC, cần phải khuyến khích, phát triển các tổ chức tư vấn đánh giá tín nhiệm độc lập và sử dụng tổ chức đánh giá tín nhiệm quốc tế trong trường hợp cần thiết theo yêu cầu của công tác quản lý.
Tất cả các kết quả đánh giá, xếp hạng trên đều phải được công bố công khai, minh bạch và thường xuyên cập nhật trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng như trên các trang thông tin điện tử chuyên ngành.
3.2.3. Phát triển tổ chức tư vấn độc lập đánh giá, thẩm định dự án Đầu tư công.
Cùng với việc nghiên cứu áp dụng các chuẩn mực quốc tế về thẩm định dự
án đối với tất cả các dự án Đầu tư công cần nghiên cứu, phát triển tổ chức tư vấn độc lập đánh giá, thẩm định trước khi phê duyệt, khi điều chỉnh chương trình, dự án Đầu tư công. Một mặt đảm bảo tính chuyên nghiệp, mặt khác đảm bảo tính công khai, minh bạch, khách quan trong quá trình thẩm định, hạn chế việc bị tác động bởi lợi ích nhóm, cục bộ. Bên cạnh đó, đối với những dự án có tầm quan trọng và quy mô đặc biệt thì cần thành lập hội đồng thẩm định với đầy đủ các thành phần, ưu tiên thành phần là tổ chức tư vấn, chuyên gia độc lập. Ngoài ra, cần nghiên cứu, ban hành sổ tay hướng dẫn thẩm định các chương trình, dự án Đầu tư công phù hợp với từng lĩnh vực đầu tư để tránh lúng túng, không thống nhất, tùy tiện khi thực hiện thẩm định và đảm bảo tiến độ.
3.2.4. Điều chỉnh cơ cấu Đầu tư công trong lựa chọn và triển khai dự án Đầu tư công
Thực tế thời gian qua, Nhà nước đầu tư khá lớn vào các lĩnh vực mà khu vực tư nhân có thể đảm nhiệm được, các dự án kinh doanh thuần túy nhưng không hiệu quả và đầu tư cung cấp một số hàng hóa, dịch vụ công hoàn toàn có thể thu hút được khu vực tư nhân tham gia nhưng chưa thực hiện được do thiếu cơ chế phù hợp. ĐTC vào các ngành công nghệ cao, các ngành có khả năng dẫn dắt chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại còn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Bên cạnh đó, ĐTC, nhất là đầu tư cho CSHT, đòi hỏi vốn lớn; khi vốn đầu tư được bố trí đầy đủ, kịp thời theo tiến độ, phân kỳ dự án, góp phần đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa công trình vận hành, đi vào hoạt động, bổ sung năng lực sản xuất cho nền kinh tế, từ đó làm nâng cao hiệu quả của ĐTC nhưng cho đến nay tình trạng công trình chờ vốn, bố trí vốn không đầy đủ, kịp thời vẫn chưa được khắc phục.
Do đó, việc cơ cấu lại, điều chỉnh giảm tỷ trọng ĐTC trong tổng đầu tư toàn xã hội gắn với đẩy mạnh thực hiện tái cơ cấu Đầu tư công một cách toàn diện sẽ góp phần nâng cao HQĐT. Theo đó, cần phải thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, từng bước hạn chế, tiến tới không đầu tư vào các ngành, nghề lĩnh vực mà khu vực tư nhân có thể đảm nhiệm được như: khai khoáng; công nghiệp chế biến, chế tạo; sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí; vận tải kho bãi; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, bất động sản… Thay vào đó, tập trung nguồn lực đầu tư cho phát triển CSHT và bảo vệ môi
trường sinh thái, trong đó ưu tiên cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nuôi trồng thủy sản; an ninh quốc phòng; giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, y tế, văn hóa xã hội, bảo vệ môi trường; các mục tiêu xóa đói, giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội; hệ thống kết cấu hạ tầng quan trọng. Đồng thời, kiên quyết cắt những dự án đầu tư không đạt các tiêu chí về hiệu quả KT-XH và chưa bảo đảm những yêu cầu về thủ tục để tập trung vốn cho các dự án bảo đảm hoàn thành trong hạn định và có hiệu quả cao. Cắt giảm các công trình ĐTC bằng nguồn ngân sách có quy mô quá lớn song chưa thật cấp bách, có thời gian đầu tư dài.
Thứ hai, tháo gỡ vướng mắc và tăng cường hỗ trợ hơn nữa về tài chính, đẩy mạnh thực hiện cơ chế hợp tác Nhà nước và tư nhân đầu tư xây dựng CSHT thông qua các dự án PPP. Một mặt giảm gánh nặng tài chính cho Nhà nước, mặt khác với năng lực, trình độ, kỹ thuật, kinh nghiệm của khu vực tư nhân sẽ góp phần nâng cao HQĐT công cả về tài chính và kinh tế xã hội. Nguồn vốn đầu tư từ NSNN phải thể hiện cho được vai trò là “vốn mồi”, kích thích, tạo “cú hích” để thúc đẩy và thu hút các nguồn vốn thuộc các thành phần kinh tế khác. Việc giải phóng giá trị đất để tạo nguồn lực tài chính cần được coi là cơ hội lớn nhất để thực hiện PPP trong lĩnh vực đầu tư vào CSHT, nhất là hạ tầng đô thị. Nhà nước cần phải tăng cường hỗ trợ chi phí chuẩn bị đầu tư; hỗ trợ trực tiếp về tài chính giúp cho các dự án trở lên khả thi về tài chính; hỗ trợ Nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án tiếp cận các nguồn vốn vay với mức lãi suất ưu đãi; sử dụng ngân sách để thanh toán cho nhà đầu tư thực hiện hợp đồng dự án BTL, BLT; nghiên cứu áp dụng hình thức bảo lãnh doanh thu tối thiểu trong một số trường hợp đặc biệt; chuyển dần cơ chế thu phí sang giá hàng hóa, dịch vụ công kết hợp với sử dụng các công cụ về thuế để các dự án PPP trở lên khả thi hơn về tài chính.
Thứ ba, đẩy nhanh việc hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư đầu tư phát triển kinh tế – xã hội, thúc đẩy các thành phần kinh tế sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. Các cơ chế, chính sách phải định hướng tốt hơn cho việc phân bổ và sử dụng vốn đầu tư gắn với lộ trình hội nhập quốc tế, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và của cả nền kinh tế. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hệ thống thuế, ngân hàng, kế toán, kiểm toán, giá cả... nhằm tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, thống nhất chính sách ưu đãi, tạo thêm nhiều cơ hội kinh doanh cho các nhà đầu tư. Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các ngành quan trong việc lập các quy hoạch đầu tư phát triển ngành, vùng lãnh thổ. Thực hiện công khai hóa các danh mục công trình, dự án, quy