Các giải pháp tăng cường quản lý đầu tư công ở Việt Nam - 15


trình và cơ chế khuyến khích đầu tư của Nhà nước để định hướng cho các nhà đầu tư lựa chọn tham gia thực hiện.

Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện các cơ chế, chính sách đặc thù áp dụng cho những vùng kinh tế đặc biệt có tác dụng lôi kéo tăng trưởng kinh tế của cả nước để định hướng nguồn lực tài chính của xã hội tập trung đầu tư cho các vùng trọng điểm, có thế mạnh xuất khẩu, có tốc độ tăng trưởng cao, làm

động lực hỗ trợ cả nước cùng phát triển. Tiếp tục đổi mới cơ chế đầu tư tín dụng nhà nước, nâng cao hiệu quả sử dụng và khả năng trả nợ các nguồn vốn vay. Chỉ áp dụng tín dụng ưu đãi đối với các dự án thuộc diện ưu tiên cao của nhà nước nhưng có nhu cầu vốn lớn và khả năng sinh lời thấp.

Thứ năm, tiếp tục đẩy mạnh khuyến khích xã hội hóa trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, môi trường, thể dục thể thao. Đây là các lĩnh vực có tác động trực tiếp đến nâng cao chất lượng cuộc sống và cải thiện phúc lợi xã hội. Nhu cầu đầu tư là rất lớn nhưng thực tế nguồn lực của Nhà nước chi cho các lĩnh vực này thời gian qua là rất hạn chế, không đáp ứng đủ nhu cầu, dàn trải, không hiệu quả. Bên cạnh đó, mặc dù chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư đối với các lĩnh vực xã hội hóa đã có nhưng thiếu tập trung, dàn trải, cào bằng, không có sự phân biệt theo điều kiện kinh tế xã hội cụ thể ở các khu vực, vùng miền, địa phương. Để có thể tăng cường huy động có hiệu quả nguồn lực xã hội cho các lĩnh vực xã hội hóa nêu trên, cần phải có chính sách ưu tiên đặc biệt ở những địa bàn, khu vực, vùng miền có điều kiện thuận lợi để thu hút và đảm bảo hiệu quả tài chính cho nhà đầu tư, đặc biệt là ở các đô thị lớn, có tốc độ đô thị hóa nhanh. Nguồn lực của Nhà nước sẽ tập trung đầu tư vào các lĩnh vực này tại các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn. Từ đó thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền, địa phương và nâng cao hiệu quả của ĐTC.

Thứ sáu, đổi mới một cách căn bản, toàn diện cơ chế hoạt động, tăng cường tự chủ toàn diện đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó cần phải đặc biệt quan tâm đến cơ chế giá, phí dịch vụ và tự chủ tài chính, đầu tư từ NSNN. Giá, phí là vấn đề hết sức quan trọng để đơn vị sự nghiệp công lập có thể tiến tới hạch toán đầy đủ, từ đó chuyển sang cơ chế tự chủ ở mức cao hơn, từ đó nâng cao


số lượng, chất lượng dịch vụ công một cách bền vững. Đồng thời, đây cũng là điểm quan trọng thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng, tạo điều kiện thu hút thêm các nhà đầu tư từ các thành phần kinh tế khác. Việc tăng cường tự chủ về tài chính, đầu tư cũng như quyền của đơn vị sự nghiệp trong việc sử dụng tài sản, đất đai để liên doanh, liên kết một mặt nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp, cung cấp hàng hóa, dịch vụ công với chất lượng tốt hơn, mặt khác từng bước giảm nhẹ gánh nặng cho NSNN. Nhà nước sẽ có điều kiện về nguồn lực tài chính tốt hơn để đầu tư tập trung cho các lĩnh vực, chương trình, dự án có tính chất chiến lược, dài hạn, quyết định đối với phát triển kinh tế xã hội đất nước và đạt được HQĐT.

Thứ bảy, tiếp tục rà soát, đình hoãn, giãn tiến độ và cắt giảm chương trình, dự án Đầu tư công không hiệu quả. Trong từng ngành, lĩnh vực, chương trình mục tiêu cần được thu gọn và sắp xếp theo thứ tự ưu tiên trên cơ sở mức độ quan trọng, cấp bách, mang lại HQĐT cao. Đình hoãn, giãn tiến độ thực hiện hoặc chuyển đổi chủ đầu tư các dự án chuyển tiếp chưa thực sự cấp bách hoặc có khả năng huy động các nguồn vốn khác nhằm khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, lãng phí, kéo dài thời gian thực hiện như hiện nay. Đồng thời, rà soát lại danh mục các dự án để phân kỳ đầu tư hợp lý hơn và loại bỏ các dự án kém hiệu quả. Dự án chỉ được phê duyệt khi đã xác định rõ về nguồn vốn và khả năng cân đối nguồn vốn, tránh tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản lớn, kéo dài. Tuy nhiên, việc cắt giảm ĐTC còn phụ thuộc vào chuyển biến nhận thức của các ngành, các địa phương về sự cần thiết phải hy sinh lợi ích riêng trước mắt vì mục tiêu chung. Đồng thời cũng cần có tiêu chí cụ thể và thời gian để rà soát lại các dự án Đầu tư công, tránh quyết định vội vã, lợi bất cập hại. Cần đặc biệt chú ý tiếp tục triển khai các dự án giải quyết vấn đề an sinh xã hội thuộc chương trình mục tiêu, dự án tại vùng khó khăn, khu vực miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số, cũng như các dự án có hiệu quả kinh tế liên ngành, liên vùng cao.

3.2.5. Nâng cao năng lực kiểm tra, giám sát trong Đầu tư công

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.

Nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát ĐTC trên phạm vi cả nước, góp phần nâng cao HQĐT công cần nghiên cứu, thành lập một cơ quan đầu mối, chuyên trách có tính độc lập cao thực hiện công tác này và điều phối các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra trong thực hiện kiểm tra, giám sát các


Các giải pháp tăng cường quản lý đầu tư công ở Việt Nam - 15

chương trình, dự án Đầu tư công. Cơ quan này có chức năng giám sát mọi hoạt động liên quan đến ĐTC từ khâu phê duyệt chủ trương, quyết định đầu tư đến tổ chức thực hiện và có đủ thẩm quyền để kiến nghị, xử lý những phát hiện trong quá trình giám sát. Để đảm bảo tính khách quan, minh bạch, độc lập thì cơ quan này nên trực thuộc Quốc hội và chịu trách nhiệm trước Quốc hội, nhân dân về hoạt động của mình. Có thể nghiên cứu mô hình tương tự như Kiểm toán Nhà nước.

Thực tế công tác thanh tra, kiểm tra các chương trình, dự án Đầu tư công hiện nay bị phân tán và chủ yếu được thực hiện bởi cơ quan thanh tra, kiểm toán, tài chính đã làm giảm hiệu lực, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát ĐTC. Công tác thanh tra, kiểm tra chủ yếu được thực hiện sau khi dự án đã kết thúc và theo các chương trình, kế hoạch, chuyên đề nên khi phát hiện ra sai phạm gây thất thoát, lãng phí, tham nhũng, đầu tư không hiệu quả thì thường rơi vào tình trạng “sự đã rồi”. Còn trong quá trình thực hiện đầu tư, trách nhiệm giám sát tập trung chủ yếu vào trách nhiệm của chủ đầu tư. Công tác giám sát của các cơ quan như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp không được thực hiện thường xuyên, mang nặng tính hình thức, cán bộ thực hiện giám sát không chuyên trách, thiếu chuyên môn, nghiệp vụ trong quản lý ĐTC và thiếu cơ chế cụ thể để kết quả giám sát khi có phát hiện ra sai phạm thì được xử lý kịp thời. Công tác giám sát cộng đồng, giám sát độc lập, phản biện xã hội không được coi trọng đúng mức và không có cơ chế cụ thể để thực thi. Một trong điều kiện để có thể nâng cao được chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát đó là phải công khai, minh bạch về tất cả các thông tin liên quan đến dự án Đầu tư công ở tất cả các khâu thì hiện vẫn mang tính hình thức, không rõ ràng về nội dung, thông tin công khai thiếu và không đầy đủ, những thông tin liên quan đến điều chỉnh quy mô, tổng mức đầu tư, thiết kế kỹ thuật… không được công khai trước khi thực hiện.

Vì vậy, để có thể nâng cao được HQĐT công, đi đôi với biện pháp tăng cường công tác quản lý ở tất cả các khâu thì cần phải nâng cao năng lực, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thực hiện công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình một cách thực chất, hiệu quả. Theo đó, cần phải thực hiện các giải pháp sau:

Thứ nhất, nâng cao năng lực và tăng cường tính tập trung trong thực hiện công tác kiểm tra, giám sát ĐTC hiện đang bị phân tán, thiếu sự tập trung, do nhiều cơ quan chức năng từ Chính phủ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thanh tra Chính phủ, Bộ Tài chính…) đến Quốc hội (Kiểm toán nhà nước), Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện. Trước mắt, kiểm toán nhà nước và các cơ quan thanh tra, thanh tra tài


chính cần tăng cường công tác chuyên môn nghiệp vụ để thẩm định, đối chiếu, so sánh, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. Kiên quyết xuất toán các khoản chi sai mục đích, không đúng khối lượng, đơn giá, không đúng tiêu chuẩn định mức, vượt dự toán lớn. Cần thực hiện chế độ trách nhiệm vật chất, kể cả trách nhiệm đối với nhà thầu, tư vấn giám sát trong việc xác nhận thanh toán khối lượng thiếu trung thực, không đúng quy định. Việc thanh toán vốn đầu tư phải được tiến hành theo đúng quy trình và phương thức thanh toán theo tiến độ thực hiện. Làm rõ trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân và thực hiện chế độ trách nhiệm đối với thủ trưởng đơn vị trong quản lý ĐTC. Cá nhân, tổ chức quyết định đầu tư sai, gây lãng phí, thất thoát phải bị xử phạt hành chính, cách chức hoặc truy cứu trách nhiệm.

Thứ hai, tăng cường giám sát, phản biện và kiểm tra, tố giác, xử lý kịp thời và nghiêm khắc các vi phạm ĐTC bằng các công cụ chế tài về tài chính và hành chính. Mở rộng hình thức, nội dung công khai và khắc phục cho được tình trạng công khai còn mang tính hình thức như hiện nay. Kiên quyết chống tham nhũng và thực hiện thường xuyên hơn trách nhiệm giải trình trong Đầu tư công.

Thứ ba, công khai các thông tin, quy trình, thủ tục, danh mục dự án vận động đầu tư, nâng cao hiệu quả cơ chế “một cửa”, quy định rõ về chính sách và các ràng buộc, chế tài nếu nhà đầu tư không thực hiện đúng cam kết. Việc công khai, minh bạch về thông tin đối với các dự án Đầu tư công sẽ góp phần giúp cơ quan quyết định đầu tư nhận được các thông tin đóng góp, phản biện của chuyên gia, xã hội từ đó xác định được đâu là công trình cần thiết, đâu là công trình chưa cấp bách, mức chi phí đầu tư cho các công trình thế nào là hợp lý và đưa ra quyết định đúng đắn hơn, đảm bảo HQĐT.

Thứ tư, đề cao trách nhiệm giám sát của Quốc hội đối với các công trình trọng điểm quốc gia, của Hội đồng nhân dân đối với các dự án đầu tư trên địa bàn; tăng cường giám sát cộng đồng, hoàn thiện cơ chế để người dân kiểm tra công việc có liên quan đến ngân sách, đất đai, tài sản của nhà nước. Hoàn thiện hệ thống thông tin, báo cáo; xây dựng các chỉ số tài khóa phù hợp với thông lệ quốc tế. Tạo điều kiện cho người dân tiếp cận được với các thông tin về nguyên tắc, mục tiêu và định hướng của chính sách tài khóa, về số liệu liên quan đến NSNN để mở rộng và nâng cao sự phản biện chính sách của cộng đồng và xã hội.


3.3. Một số kiến nghị


3.3.1. Kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ

- Một là, Quốc Hội, Chính phủ cần chỉ đạo các bộ ngành liên quan trong việc hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư công một các nhanh chóng, hiệu quả để Luật sớm phát huy vai trò trong thực tiễn. Ban hành Luật Quy hoạch và các văn bản hương dẫn làm cơ sở cho việc rà soát chấn chỉnh công tác quy hoạch, quản lý triệt để việc tuân thủ quy hoạch.

- Hai là, xem xét sửa đổi bổ sung vấn đề phân cấp đầu tư. Đặc biệt, sửa đổi cơ chế quyết định đầu tư theo hướng chủ thể ra quyết định đầu tư phải chịu trách nhiệm cân đối nguồn lực cho đầu tư. Siết chặt kỷ cương trong việc sử lý các vụ việc gây thất thoát, lãng phí trong đầu tư công để đảm bảo tinh thần thượng tôn pháp luật.

3.3.2. Kiến nghị với Bộ Tài chính

- Một là, thực hiện việc phân bổ ngân sách Trung ương cho các địa phương theo giao đoạn (05 năm) để địa phương có thể chủ động trong bố trí ngân sách trong đầu tư công.

- Hai là, thực hiện nghiêm công tác thanh tra, kiểm tra chuyên ngành về kế hoạch, tài chính để việc thực hiện kế hoạch ngân sách của các địa phương đảm bảo mục tiêu đề ra.

3.3.3. Kiến nghị với Bộ kế hoạch đầu tư

Trong việc quy hoạch chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh cần đảm bảo tính khả thi của các kế hoạch, quy hoạch. Xác định trọng điểm đầu tư để đầu tư rứt điểm, có trọng tâm, trọng điểm. Thực hiện một cách đúng đắn các quy hoạch, chiến lược đã được phê duyệt. Kiểm soát chặt từ khâu lập kế hoạch đầu tư.

- Hai là, tăng cường công tác theo dõi, đánh giá và kiểm tra, thanh tra đầu tư công, nhất là sự giám sát của người dân và cộng đồng. Các dự án đầu tư nên được theo dõi, đánh giá dựa trên kết quả. Ngoài ra, cần thực hiện giám sát ngay từ khâu lập dự án, thẩm định, bố trí vốn đầu tư, đảm bảo tuân thủ theo các quy định pháp luật và quy hoạch, kế hoạch được duyệt; Nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra để kịp thời phát hiện và xử lý các sai phạm phát sinh, nâng cao hiệu quả quản lý nguồn vốn đầu tư công.



- Ba là, thực hiện đầy đủ, hiệu quả tám khâu trong quy trình quản lý đầu tư công.

- Bốn là, thu hút khu vực tư nhân tham gia đầu tư vào các dự án phát triển kết cấu hạ tầng. Đây là một trong những giải pháp hiệu quả nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư công và hiệu quả trong chiến lược phát triển kinh tế dài hạn.


KẾT LUẬN


Với đề tài “Giải pháp hoàn thiện quản lý đầu tư công ở Việt Nam”, luận văn đã thực hiện được mục tiêu nghiên cứu đã đề ra. Luận văn tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận án, tìm ra được khoảng trống để làm rõ sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu. Luận văn đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về ĐTC, quản lý đầu tư công tại Việt Nam. Những kết luận chính mà Luận văn rút ra gồm:

1. Kinh nghiệm của một số quốc gia chỉ cho Việt Nam một số bài học hữu ích có thể vận dụng để nâng cao quản lý đầu tư công. ĐTC cần phải được thực hiện hài hòa với khung khổ chính sách phát triển kinh tế – xã hội và cần được bổ trợ bằng các chính sách và đòi hỏi sự điều phối và phối hợp hiệu quả của các cơ quan liên quan. Tính độc lập, khách quan trong thẩm định, đánh giá dự án Đầu tư công hạn chế được những ảnh hưởng mang tính chính trị, lợi ích nhóm, giảm tình trạng tham nhũng góp phần nâng cao HQĐT công.

2. Tình trạng thất thoát, lãng phí, đầu tư không hiệu quả vẫn còn phổ biến và còn rất nhiều yếu kém trong các khâu quản lý đầu tư công.

3. Để nâng quản lý đầu tư công cần tăng cương Quản lý, kiểm soát chặt chẽ chất lượng ĐTC là trọng tâm của chính sách ĐTC nhằm nâng cao HQĐT công. Tuân thủ triệt để quy hoạch, quyết định đầu tư đồng bộ với khả năng bố trí nguồn lực trên cơ sở bộ tiêu chí ưu tiên, thực hiện nghiêm túc kỷ luật tài khóa đảm bảo cho ĐTC đạt được hiệu quả. Đồng thời, cần phải tôn trọng nguyên tắc công khai, minh bạch và kiểm tra, giám sát, phản biện độc lập. Trên cơ sở đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân và các quan điểm nêu trên, Luận văn đã đề xuất được hệ thống giải cũng như một số kiến nghị cụ thể với hy vọng góp phần pháp cải thiện, nâng cao hoàn thiện quản lý đầu tư công ở Việt Nam trong thời gian tới.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Tiếng Việt

1. Vũ Thành Tự Anh, Quản lý và phân cấp quản lý đầu tư công: Thực trạng ở Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế, Hà Nội, 2012

2.Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Quang Thái, Đầu tư công: thực trạng và tái cơ cấu, NXB Từ điển Bách Khoa, 2010

3.Bộ Kế hoạch và Đầu tư, “Báo cáo đánh giá tác động của Dự tháo luật đầu tư công”, Hà Nội, 2010

4. Bùi Quang Bình, “ Tái cấu trúc đầu tư công ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp”, Tạp chí phát triển Kinh tế, số 258, tháng 4/2012

5. Nguyễn Thế Bính, “ 30 năm hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam: Thành tựu, thách thức và những bài học”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, số 22 (32), tháng 5-6/2015.

6. Bộ tài chính, Thông tư 09/2016/TT-BTC quyết toán dự án hoàn thành thuộc nguồn NSNN, 2016

7. Nguyễn Đình Cung, “Cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả đầu tư nhà nước- một yêu cầu cấp bách của tái cơ cấu kinh tế”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học về tái cơ cấu đầu tư công, 2011

8. Bùi Mạnh Cường, “Nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển từ nguồn vốn NSNN ở Việt Nam”, Luận văn tiến sĩ kinh tế, Trường đại học kinh tế - Đại học quốc gia Hà Nội, 2012

8. Lê Đăng Doanh, “Đầu tư của khu vực doanh nghiệp nhà nước”, Kỷ yếu tại Hội thảo về tái cơ cấu Đầu tư công, Huế 2010

9. Nguyễn Thị Phú Hà, “Nâng cao hiệu quả quản lý chi tiêu NSNN nhằm phục vụ nhu cầu phát triển ở Việt Nam”, Luận văn tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính, 2007

10. Quốc Hội, Luật đầu tư công 49/2014/QH13, 2014

11.Phạm Văn Hùng, Phan Thị Thu Hiền, Lương Hương Giang , “Đổi mới công tác quản lý hoạt động đầu tư nhằm thực hiện tái cấu trúc đầu tư công tại Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 177, 2012

12. Võ Thị Vân Khánh, “ Nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư công”, Tạp chí

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 15/12/2022