Chẳng hạn như cơ quan thẩm định dự án đồng thời là cơ quan quyết định hoặc là cấp dưới của cơ quan quyết định chủ trương đầu tư. Thậm chí, trong một số trường hợp, cơ quan thẩm định trước đó lại đóng vai trò tư vấn cho chủ đầu tư trong việc xây dựng dự án. Trong trường hợp này, hoạt động thẩm định dự án chỉ có tính chất hình thức và chiếu lệ. Bên cạnh đó, năng lực của các cơ quan thẩm định dự án hiện rất hạn chế, thể hiện rõ nhất qua việc thẩm định các dự đầu tư quy mô lớn và phức tạp và thường không đưa ra được những đánh giá thuyết phục về hiệu quả tài chính, kinh tế, và xã hội của dự án. Vì vậy, không đủ luận cứ để loại bỏ hay thông qua dự án. Trong trường hợp này, giải pháp thông thường là yêu cầu chủ đầu tư điều chỉnh lại dự án sao cho phù hợp với các quy định hiện hành để tránh những rủi ro về trách nhiệm và pháp lý sau này.
c) Bố trí vốn đầu tư:
Tình trạng phê duyệt dự án không gắn với khả năng cân đối vốn đầu tư, nhất là việc các địa phương phê duyệt dự án theo phân cấp nhưng lại xin tài trợ vốn từ ngân sách trung ương diễn ra phổ biến dẫn đến tính trạng dự án chờ vốn, chạy vốn, đầu tư dàn trải và hệ quả tất yếu là giảm HQĐT.
d) Công tác nghiệm thu, quyết toán công trình
Công tác nghiệm thu, quyết toán một số dự án sai quy định, nhiều trường hợp nghiệm thu sai khối lượng, đơn giá; nghiệm thu thanh toán khi chưa có khối lượng hoàn thành; nghiệm thu thanh toán chưa đầy đủ hồ sơ; số tiền tạm ứng vượt giá trị phải thanh toán hoặc quyết toán thừa cho nhà thầu không được xử lý triệt để.
e) Vận hành kết quả đầu tư
Công tác vận hành, bảo trì kết quả đầu tư chưa được coi trọng đúng mức, thiếu kinh phí trầm trọng, chẳng hạn kinh phí duy tu đường bộ chỉ bằng một nửa nhu cầu tối thiểu. Hơn nữa, các đơn vị trực tiếp sử dụng các cơ sở vật chất không chú trọng đến duy tu, bảo dưỡng các công trình, trang thiết bị. Hậu quả là kết cấu hạ tầng xuống cấp nhanh chóng, tuổi thọ bị rút ngắn, do đó cần vốn đầu tư lớn để sửa chữa lớn và nâng cấp, giảm hiệu quả của đầu tư.
g) Công tác kiểm tra, giám sát còn nhiều hạn chế
Theo quy định của pháp luật, tất cả các dự án Đầu tư công chủ đầu tư phải tổ
Có thể bạn quan tâm!
- Đầu Tư Cơ Sở Hạ Tầng Phân Tán: Ví Dụ Về Sân Bay, Cảng Biển, Khu Kinh Tế Ven Biển
- Một Số Dự Án Đội Giá Thành Và Kéo Dài Thời Gian Điển Hình
- So Sánh Chất Lượng Quản Lý Đầu Tư Công Của Việt Nam Với Một Số Nước Khác
- Các Giải Pháp Nhằm Tăng Cường Quản Lý Đầu Tư Công Tại Việt Nam
- Các giải pháp tăng cường quản lý đầu tư công ở Việt Nam - 15
- Các giải pháp tăng cường quản lý đầu tư công ở Việt Nam - 16
Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.
chức thực hiện giám sát và báo cáo kết quả giám sát với cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp và cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư. Nhưng trên thực tế, tính kỷ cương, kỷ luật trong báo cáo giám sát đầu tư chưa cao, thông tin phản hồi phục vụ công tác quản lý còn nhiều hạn chế và mang tính hình thức, chiếu lệ, không thực chất và phân tán tại nhiều cơ quan, đơn vị. Mặc dù đây là công tác rất quan trọng nhằm đảm bảo hoạt động đầu tư đúng với dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt, chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản nói chung và vốn ĐTC nói riêng.
Năng lực quản lý, giám sát của chủ đầu tư, Ban quản lý dự án còn hạn chế, lực lượng cán bộ làm công tác giám sát, đánh giá đầu tư hiện còn mỏng, chủ yếu là kiêm nhiệm; cơ cấu tổ chức làm công tác giám sát, đánh giá đầu tư mới được hoàn thiện ở cấp bộ, ngành và cấp tỉnh; cấp huyện chưa ổn định, cấp xã hầu như chưa có. Điều này dẫn đến thực trạng lập các báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư ở một số cơ quan theo định kỳ còn mang tính hình thức, chất lượng báo cáo chưa cao, chưa mang tính tự giác, các kỳ báo cáo đều phải đôn đốc, nhắc nhở; việc xử lý vi phạm trong giám sát, đánh giá đầu tư chưa được thực hiện nghiêm túc, đặc biệt là các vi phạm liên quan đến công tác báo cáo giám sát, đánh giá đầu tư. Vẫn còn một số cơ quan và chủ đầu tư chưa thực sự quan tâm đến công tác đánh giá dự án đầu tư theo quy định, đặc biệt là việc tổ chức đánh giá tác động của dự án đầu tư để làm rõ hiệu quả thực tế của dự án.
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ ĐẦU TƯ CÔNG TẠI VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2025
3.1. Định hướng và quan điểm quản lý đầu tư công tại Việt Nam đến năm 2025
3.1.1. Mục tiêu quản lý đầu tư công tại Việt Nam
Căn cứ vào Quyết định 63/QĐ TTCP năm 2018 về phê duyệt đề án cơ cấu lại đầu tư công giai đoạn 2017-2020 và định hướng đến năm 2025 do thủ tướng chính phủ ban hành về mục tiêu quản lý đầu tư công như sau:
a) Mục tiêu:
* Mục tiêu tổng quát:
Cơ cấu lại đầu tư công giai đoạn 2017 - 2020 và một số định hướng đến năm 2025 nhằm chuyển đổi và hình thành cơ cấu đầu tư hợp lý, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của đầu tư công và chất lượng thể chế quản lý đầu tư công; thu hút tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đầu tư phát triển, đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội thiết yếu, phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm.
* Mục tiêu cụ thể:
+ Tổ chức thực hiện hiệu quả kế hoạch đầu tư công trung hạn gắn với kế hoạch tài chính trung hạn và kế hoạch vay, trả nợ công. Phấn đấu đạt tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công hàng năm trên 90%.
+ Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế quản lý đầu tư công trong tất cả các khâu của quy trình quản lý đầu tư công, nâng cao hiệu quả và tính bền vững của đầu tư công.
+ Xác định rõ vai trò và định hướng đầu tư công theo nguồn vốn và các ngành, lĩnh vực giai đoạn 2017 - 2020 và định hướng đến năm 2025. Tỷ trọng vốn đầu tư nhà nước bình quân đạt khoảng 10 - 11% GDP.
+ Tiếp tục đẩy mạnh thu hút tối đa, quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển theo hướng đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư, mở rộng các hình thức đầu tư.
Cơ cấu lại đầu tư công giai đoạn 2018 - 2020 và định hướng đến năm 2025 tập trung vào các ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, các công trình, dự án trọng điểm, có sức lan tỏa rộng và tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội của cả
nước, tạo đột phá thu hút nguồn vốn khu vực tư nhân trong và ngoài nước theo hình thức đối tác công tư (PPP) và bảo đảm phát triển hài hòa giữa các vùng, lãnh thổ. Định hướng đầu tư công theo vùng, lãnh thổ.
3.1.2. Quan điểm quản lý đầu tư công tại Việt Nam đến năm 2025
Quản lý đầu tư công cần phải gắn với thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống và phúc lợi xã hội
ĐTC có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo. Nhà nước thực hiện chức năng này thông qua ĐTC. Thời gian qua, ĐTC đã thể hiện vai trò tích cực trong điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và từng bước hoàn thành các mục tiêu thiên niên kỷ, trong đó quan trọng nhất là vấn đề giảm nghèo. Tuy nhiên, thành tích về tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo ở Việt Nam mới chỉ thể hiện rõ nét sự thay đổi về mặt lượng, chưa có sự đột phá, thay đổi căn bản về chất. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa ổn định và nhạy cảm, dễ bị tổn thương trước những biến động của kinh tế khu vực, thế giới. Tốc độ giảm nghèo nhanh nhưng chưa bền vững, tỷ lệ tái nghèo cao, vấn đề nghèo đa chiều chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng cuộc sống của người dân chưa được cải thiện.
Do đó, trong giai đoạn tới, ĐT công cần phải có sự điều chỉnh, chuyển hướng chiến lược từ chiều rộng sang chiều sâu hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và nâng cao phúc lợi cho người dân với 3 trụ cột: kinh tế - xã hội – môi trường. Trong đó, cần đảm bảo hài hòa các mục tiêu phát triển phù hợp với điều kiện, đặc điểm của Việt Nam. Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với nâng cao phúc lợi, đảm bảo công bằng xã hội. Đồng thời, ĐTC cần phải đóng vai trò tích cực, mạnh mẽ hơn nữa thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hay nói cách khác, ĐTC cần phải được sử dụng như là một công cụ đắc lực phục vụ mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong dài hạn và điều tiết sự phát triển của xã hội.
Quản lý, kiểm soát chặt chẽ ĐTC là trọng tâm của chính sách ĐTC nhằm nâng cao HQĐT công
Hệ thống chính sách, phát luật về ĐTC của Việt Nam vẫn đang trong quá trình hoàn thiện, đáp ứng đòi hỏi, yêu cầu của thực tiễn phát triển kinh tế xã hội từng thời kỳ. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, công tác quản lý ĐTC bị phân tán, không chặt chẽ, dàn trải và chạy theo số lượng, phong trào đã dẫn đến hậu
quả tất yếu hiệu quả, chất lượng của ĐTC rất thấp, tình trạng thất thoát, lãng phí, tham nhũng trong lĩnh vực ĐTC tương đối phổ biến. HQĐT công xét trên các khía cạnh kinh tế, xã hội chưa được quan tâm đúng mức, không được tính toán một cách đầy đủ trên cơ sở khoa học và thực tiễn, mang nặng tính hình thức, chiếu lệ khi phê duyệt dự án Đầu tư công. Tư duy nhiệm kỳ, lợi ích nhóm và mong muốn chính trị cá nhân lấn át các tiêu chí về đánh giá hiệu quả khi phê duyệt, thông qua chương trình, kế hoạch, dự án Đầu tư công là vấn đề thực tế đang diễn ra nhưng chậm được khắc phục. Vì vậy, trọng tâm trong chính sách ĐTC trong giai đoạn tới cần phải nhất quán quan điểm tăng cường quản lý, kiểm soát chặt chẽ và nâng cao hiệu quả, chất lượng ĐTC.
Đồng thời, việc ban hành các chính sách về ĐTC cần phải có sự gắn kết tổng thể hệ thống thể chế, chính sách quản lý kinh tế. Vì bản thân hoạt động quản lý ĐTC không phải là nhân tố duy nhất quyết định chất lượng và HQĐT công. Hiệu quả và hiệu lực của hệ thống phân bổ ngân sách, hệ thống quản lý nợ công, tất cả đều có ảnh hưởng sâu sắc đến hệ thống quản lý ĐTC và HQĐT công.
Tuân thủ triệt để quy hoạch, quyết định đầu tư đồng bộ với khả năng bố trí nguồn lực trên cơ sở bộ tiêu chí ưu tiên, thực hiện nghiêm túc kỷ luật tài khóa đảm bảo cho ĐTC đạt được hiệu quả
Với việc xây dựng và thực hiện kế hoạch đầu tư, bố trí vốn trung hạn sẽ vừa bảo đảm các cân đối kinh tế lớn trong phạm vi cả nước, vừa tạo sự chủ động cho các bộ, ngành, địa phương biết cấp mình, cơ quan mình có bao nhiêu vốn trong kế hoạch 5 năm tới, để có quyết định chủ trương đầu tư đúng đắn, hiệu quả hơn; đặc biệt là tạo ra sự công khai, minh bạch, hạn chế tiêu cực, tham nhũng trong phân bổ nguồn lực của Nhà nước.
Quản lý Đầu tư công cần phải gắn với thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống và phúc lợi xã hội
ĐTC có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo. Nhà nước thực hiện chức năng này thông qua ĐTC. Thời gian qua, ĐTC đã thể hiện vai trò tích cực trong điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và từng bước hoàn thành các mục tiêu thiên niên kỷ, trong đó quan trọng nhất là vấn đề giảm nghèo. Tuy nhiên, thành tích về tăng trưởng
kinh tế và giảm nghèo ở Việt Nam mới chỉ thể hiện rõ nét sự thay đổi về mặt lượng, chưa có sự đột phá, thay đổi căn bản về chất. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa ổn định và nhạy cảm, dễ bị tổn thương trước những biến động của kinh tế khu vực, thế giới. Tốc độ giảm nghèo nhanh nhưng chưa bền vững, tỷ lệ tái nghèo cao, vấn đề nghèo đa chiều chưa được quan tâm đúng mức, chất lượng cuộc sống của người dân chưa được cải thiện.
Tôn trọng nguyên tắc công khai, minh bạch và kiểm tra, giám sát trong quản lý đầu tư công
Công khai, minh bạch và kiểm tra, kiểm soát là yêu cầu bắt buộc đối với mọi hoạt động của Nhà nước nhằm đảm bảo hiệu quả, ngăn ngừa tham nhũng, lãng phí. Điều này càng phải được đặt lên hàng đầu đối với những hoạt động liên quan đến sử dụng nguồn lực công. Thực tế, tình trạng thất thoát, lãng phí trong tất cả các khâu của quản lý ĐTC và hiệu quả thấp của ĐTC cũng có một phần đóng góp không nhỏ của thực trạng “hình thức” trong công tác thực hiện công khai, minh bạch và kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng, đối tượng thụ hưởng thành quả của đầu tư và cộng đồng. Mặc dù quy định về công khai, minh bạch và kiểm tra, giám sát đã có nhưng việc thực hiện bị coi nhẹ, thiếu kỷ luật, không thực chất, phân tán do nhiều cơ quan thực hiện, thiếu tính độc lập và chuyên nghiệp. Ngoài các cơ quan chuyên ngành như thanh tra, kiểm toán thì cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư cũng là cơ quan thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát đầu tư. Thiếu cơ chế hữu hiệu để tăng cường sự tham gia giám sát có hiệu quả của đối tượng thụ hưởng, tổ chức phản biện xã hội và cộng đồng dân cư. Ý kiến phản biện của xã hội chưa được quan tâm đúng mức khi quyết định chủ trương, phê duyệt đầu tư và không được xử lý, phản hồi nghiêm túc. Do đó, để nâng cao HQĐT công, cần phải thống nhất quan điểm tôn trọng nguyên tắc công khai, minh bạch và giám sát độc lập.
3.1.3. Lộ trình thực hiện
3.1.3.1. Lộ trình thộ trìnhtrình thực hiện đầu tư công tại Việt Nam đến năm 2020
+ Khẩn trương rà soát, sửa đổi, những quy định của pháp luật về đầu tư công còn vướng mắc trong quá trình thực hiện, đặc biệt tại Luật Đầu tư công và các Nghị định hướng dẫn thi hành. Việc rà soát, sửa đổi, hoàn thiện cơ chế, chính sách, hệ
thống pháp luật về đầu tư công cần tập trung theo hướng tăng cường cải cách thủ tục hành chính, giảm thiểu các thủ tục đầu tư không cần thiết; rút ngắn quy trình, thời gian thực hiện các thủ tục về đầu tư công; đẩy mạnh phân cấp, giao trách nhiệm, tạo sự chủ động cho các bộ, ngành và địa phương thực hiện nhiệm vụ được giao, bảo đảm tính thống nhất giữa các văn bản pháp luật; quản lý hiệu quả vốn đầu tư công, nâng cao chất lượng công tác lập, thẩm định kế hoạch đầu tư công góp phần đẩy nhanh tiến độ giao kế hoạch trung hạn và hàng năm; đẩy nhanh tiến độ giải ngân kế hoạch đầu tư công góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
+ Nghiêm túc triển khai thực hiện các quy định pháp luật về đầu tư công. Nâng cao ý thức, trách nhiệm của các bộ, cơ quan, địa phương trong việc bố trí vốn cho từng dự án cụ thể. Bảo đảm bố trí đủ vốn để hoàn thành dự án theo tiến độ đã được quy định.
+ Thực hiện cơ cấu lại đầu tư công gắn chặt chẽ với cơ cấu lại ngân sách nhà nước và nợ công, quyết liệt thực hiện chủ trương giảm tỷ trọng đầu tư nhà nước, tăng tỷ trọng đầu tư của các thành phần kinh tế khác. Đa dạng hóa các hình thức, kênh đầu tư và mô hình hợp tác nhằm huy động hiệu quả các nguồn vốn ngoài Nhà nước cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Mở rộng tối đa phạm vi và cơ hội cho đầu tư tư nhân, nhất là tư nhân trong nước. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư tư nhân tham gia phát triển hạ tầng, phát triển các ngành, các sản phẩm có lợi thế, có tiềm năng phát triển và các vùng kinh tế động lực, một số ngành nghề trong lĩnh vực xã hội, xử lý môi trường bảo đảm cho nền kinh tế phát triển bền vững. Đẩy mạnh thực hiện chủ trương xã hội hóa đối với các dịch vụ công.
+ Tăng cường quản lý đầu tư công. Chú trọng nâng cao hiệu quả công tác chuẩn bị đầu tư. Tăng cường rà soát, bảo đảm các chương trình, dự án bố trí trong kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm phải có đầy đủ các thủ tục đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư công. Quản lý chặt chẽ việc sử dụng nguồn vốn dự phòng trong kế hoạch đầu tư công trung hạn. Tăng cường công tác phối hợp giữa các cấp, các ngành và các địa phương trong triển khai thực hiện. Chú trọng công tác theo dõi, đánh giá thực hiện kế hoạch đầu tư công và thực hiện các chương trình, dự án đầu tư cụ thể. Thực hiện nghiêm chế độ báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư
công định kỳ hoặc đột xuất theo quy định. Theo dõi, đôn đốc (chủ đầu tư, Ban quản lý dự án, nhà thầu) đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân vốn đầu tư công.
+ Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin về quản lý đầu tư công. Triển khai xây dựng Hệ thống thông tin dữ liệu dự án đầu tư công tập trung, thống nhất trên toàn quốc.
3.1.3.2. Lộ trình thực hiện đến năm 2025
+ Nâng cao chất lượng thể chế quản lý đầu tư công:
- Nghiên cứu, đánh giá toàn diện chất lượng thể chế quản lý đầu tư công. Tiếp tục rà soát, nghiên cứu hoàn thiện cơ chế chính sách và hệ thống pháp luật về đầu tư công, trong đó tập trung rà soát và giải quyết triệt để những quy định của pháp luật về đầu tư công còn vướng mắc trong quá trình thực hiện trong tất cả các khâu của quy trình quản lý đầu tư công.
- Rà soát, giảm thiểu các thủ tục đầu tư không cần thiết, rút ngắn thời gian hoàn thiện thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi để các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp, nhà đầu tư, nhà tài trợ triển khai nhanh các dự án đầu tư, không để chậm trễ trong giải ngân vốn đầu tư công.
- Hoàn thiện thể chế đầu tư theo hình thức PPP theo hướng minh bạch, ổn định, bình đẳng, kiểm soát chặt chẽ hiệu quả đầu tư, rút gọn thủ tục đầu tư, tạo chính sách ưu đãi, điều kiện thuận lợi để tăng tính hấp dẫn, thu hút các nhà đầu tư.
- Thực hiện nghiên cứu rà soát, hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật, đơn giá xây dựng, suất đầu tư xây dựng công trình phục vụ các ngành kinh tế.
+ Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư của nền kinh tế theo cơ chế thị trường, tiếp tục hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội thiết yếu, phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội:
- Đối với vốn đầu tư ngân sách nhà nước: bảo đảm đầu tư tập trung, hiệu quả, khắc phục tình trạng phân tán, dàn trải trước đây. Ưu tiên bố trí phần vốn ngân sách nhà nước và tăng cường huy động các nguồn vốn đầu tư kết cấu hạ tầng theo hình thức PPP. Ngân sách trung ương chỉ tập trung đầu tư cho các chương trình mục tiêu quốc