Đảm Bảo Quyền Tự Do Kinh Doanh Cho Các Nhà Đầu Tư Theo Các Văn Bản Luật Quốc Tế Mà Việt Nam Ký Kết.


Quy định về đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư không phù hợp với thực tế vì bản chất, mục tiêu của quy trình đấu thầu theo Luật Đấu thầu và đấu thầu theo Luật Đầu tư là hoàn toàn khác nhau

Các cơ quan quản lý chưa công bố công khai danh mục ngành nghề kinh doanh bị cấm, có điều kiện và các điều kiện kinh doanh tương ứng áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài để thực hiện đúng danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện; thiếu hướng dẫn về chế độ báo cáo đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Thậm chí, một số trường hợp đã có quy định pháp lụât nhưng vẫn chưa được thực hiện, ví dụ như một số địa phương chưa thành lập được tổ chức phát triển quỹ đất, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất ở cấp huyện. Tổ chức dịch vụ công hoạt động còn hình thức, dịch vụ còn hạn chế. Các cơ quan quản lý đất đai vẫn thiếu tận tâm trong việc cung cấp dịch vụ cho doanh nghiệp, dẫn tới kéo dài thủ tục hành chính không cần thiết, mất thêm thời gian và chi phí tốn kém cho doanh nghiệp. Một số thủ tục hành chính trong các lĩnh vực xây dựng, đất đai, đầu tư còn phiền hà, rất khó tiếp cận, bộ máy phục vụ còn thiếu chuyên nghiệp, năng lực cán bộ còn yếu kém, không nắm vững các quy trình, thủ tục và pháp luật về thủ tục hành chính trong quản lý, sử dụng đất đai. Quyền sử dụng đất được phân chia theo khả năng lựa chọn hình thức sử dụng đất gây khó hiểu cho việc áp dụng trong thực tiễn. Các quy định về thủ tục hành chính trong quản lý, sử dụng đất đai ban hành ở nhiều văn bản khác nhau, rất khó áp dụng. Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư quy định ở Luật đất đai và nhiều nghị định của Chính phủ, rất khó cập nhật và áp dụng.

Một số cơ quan quản lý chưa ban hành kịp thời các biện pháp, như kiểm tra kế toán quy định trong Luật Kế toán, quản lý Nhà nước về kế toán,...Một số quy định của cơ quan quản lý chọn cách quản lý thuận lợi, gây khó khăn, thiệt hại cho doanh nghiệp như quy định về đăng ký nhãn hiệu sở hữu trí tuệ, thời hạn nộp bản sao ưu tiên xin hưởng quyền ưu tiên khi nộp đơn đăng ký sở hữu trí tuệ

- Về vấn đề hội nhập quốc tế

Một số quy định pháp luật chưa tạo điều kiện doanh nghiệp phát triển bền vững và hội nhập quốc tế


Các quy định về quyền sử dụng đất có phân biệt giữa hình thức thuê đất trả tiền thuê hàng năm và trả tiền thuê một lần khiến các doanh nghiệp đã yếu kém về năng lực tài chính nhưng không thể được dùng quyền sử dụng đất trong các giao dịch dân sự về đất đai. Do đó, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp này bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đặc biệt trong việc tiếp cận vốn từ các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam. Chính sách thu hút đầu tư vào lĩnh vực này vẫn còn thiếu bền vững, đầu tư nước ngoài giảm thiểu những năm gần đây, số lượng người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài mua nhà ở không đáng kể, nhiều dự án đầu tư nước ngoài không thể triển khai do thiếu vốn.

Tuy nhiên, quy hoạch sử dụng đất của cả nước và quy hoạch của ngành và địa phương chưa được tính toán đầy đủ các yếu tố của phát triển, nhiều quy hoạch tự phát phá vỡ quy hoạch chung. Quỹ đất quy hoạch cho phát triển công nghiệp đang thực hiện theo kiểu phong trào tại các địa phương khiến lãng phí nguồn lực đất đai (diện tích lấp đầy mới chiếm 46% tại 264 khu công nghiệp ở Việt Nam). Điều này cũng khiến sự bất bình của một bộ phận nông dân bị mất đất nhưng sử dụng lãng phí cho phát triển công nghiệp.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

2.2. Đảm bảo quyền tự do kinh doanh cho các nhà đầu tư theo các văn bản luật quốc tế mà Việt Nam ký kết.

Đến nay Việt Nam đã ký kết và tham gia rất nhiều cam kết quốc tế về đầu tư hoặc liên quan đến đầu tư, bao gồm: các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư ký kết với 55 nước; các Hiệp định/Chương Đầu tư trong khuôn khổ FTA; và các cam kết khác liên quan đến đầu tư như Hiệp định về Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs) của WTO, các hiệp định về dịch vụ trong WTO và các FTA, hiệp định thành lập tổ chức bảo đảm đầu tư đa phương (MIGA), Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài, v..v…

Các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam - 9

Việc nghiên cứu các văn bản này có ý nghĩa hết sức quan trọng bởi nó là cơ sở pháp lý hình thành nên quyền tự do kinh doanh trong hoạt động đầu tư của NĐT nước ngoài vào Việt Nam và của NĐT Việt Nam sang nước ngoài.

Nhìn chung, các Hiệp định, cam kết của Việt Nam liên quan đến hoạt động đầu tư đều thể hiện dưới hình thức tỷ lệ vốn sở hữu của NĐT nước ngoài tại các


doanh nghiệp Việt Nam hoặc được thể hiện dưới dạng cam kết cho phép các nhà đầu tư nước ngoài hiện diện thương mại, thâm nhập trong các ngành, lĩnh vực đầu tư tại Việt Nam.

2.2.1. Cam kết đối với Tổ chức Thương mại Thế giới

Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được hơn 5 năm với cam kết mở cửa thị trường cho các nhà đầu tư nước ngoài theo lộ trình. Kể từ năm 2009, nhiều lĩnh vực dịch vụ đã cho phép nhà đầu tư nước ngoài được tham gia cung cấp như kiến trúc, nghiên cứu thị trường, giáo dục, phân phối hàng hóa và quảng cáo. Sự mở rộng này là cơ hội cho hoạt động đầu tư thông qua hình thức sáp nhập và mua lại mặc dù hiện nay nhiều quy định của WTO cần được hướng dẫn cụ thể khi áp dụng.

Việc nhà đầu tư góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp Việt Nam liên quan đến phương thức cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện thương mại tại Việt Nam. Trong phần cam kết chung khi gia nhập WTO, Việt Nam cam kết: "Nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được phép góp vốn dưới hình thức mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam. Trong trường hợp này, tổng mức vốn cổ phần do các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ trong một doanh nghiệp không được vượt quá 30% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó, trừ khi luật pháp Việt Nam có quy định khác hoặc được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cho phép. Một năm sau khi gia nhập, hạn chế 30% cổ phần nước ngoài trong việc mua cổ phần của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được bãi bỏ, ngoại trừ đối với việc góp vốn dưới hình thức mua cổ phần trong các ngân hàng thương mại cổ phần và với những ngành không cam kết trong Biểu cam kết này. Với các ngành và phân ngành khác đã cam kết trong Biểu cam kết này, mức cổ phần do các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ khi mua cổ phần tại doanh nghiệp Việt Nam phải phù hợp với các hạn chế về tỷ lệ tham gia vốn của nước ngoài được quy định trong các ngành và phân ngành đó, bao gồm cả hạn chế dưới dạng thời gian chuyển đổi, nếu có".

Như vậy, cho đến nay, các hạn chế đối với tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam đã bị xóa bỏ, trừ một số lĩnh vực đặc thù như


ngân hàng và chứng khoán. Ngoài ra, một số hạn chế về tỷ lệ sở hữu cổ phần hạn chế không có thời hạn dỡ bỏ:

- Dịch vụ liên quan đến lâm nghiệp, săn bắn và nông nghiệp: Chỉ cho phép thành lập liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh. Phần vốn góp của phía nước ngoài không vượt quá 51% vốn pháp định của liên doanh.

- Dịch vụ viễn thông không có hạ tầng mạng: Phần vốn góp của phía nước ngoài trong liên doanh không vượt quá 65% vốn pháp định của liên doanh.

Ngày 29 tháng 11 năm 2006, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 71/2006/QH11 phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nghị quyết này đã quy định một số cam kết được áp dụng trực tiếp, đồng thời giao Chính phủ và các cơ quan có liên quan báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội việc áp dụng trực tiếp các cam kết khác chưa được quy định tại Nghị quyết. Tuy nhiên, việc áp dụng trực tiếp các cam kết quốc tế còn nhiều hạn chế.

2.2.2. Cam kết trong khu vực ASEAN

Theo nhiều chuyên gia nhận định, đến năm 2015 hoạt động M&A trong khu vực ASEAN sẽ diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính và năng lượng, do các Hiệp định được ký kết giữa các quốc gia ASEAN đã tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng, các rào cản thương mại, thuế quan hầu như không còn trong khu vực này.

Các các kết quốc tế của Việt Nam trong khu vực ASEAN về M&A chủ yếu được thể hiện ở Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN. Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN được các quốc gia thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á lập ngày 07-10-1998 nhằm khẳng định lại tầm quan trọng của việc giữ vững sự tăng trưởng và phát triển kinh tế ở tất cả các quốc gia thành viên ASEAN bằng những nỗ lực chung nhằm tự do hóa thương mại, thúc đẩy thương mại và đầu tư giữa các nước ASEAN, đồng thời ghi nhớ những thỏa thuận nhằm hình thành Khu vực Đầu tư ASEAN có tính cạnh tranh vào năm 2010 sẽ góp phần hướng tới Tầm nhìn ASEAN năm 2020.

Một trong những mục tiêu của Hiệp định là xây dựng một Khu vực Đầu tư ASEAN (AIA) có môi trường đầu tư thông thoáng và rõ ràng hơn giữa các quốc gia


thành viên, nhằm đẩy mạnh đầu tư vào ASEAN từ các nguồn cả trong và ngoài ASEAN; cùng thúc đẩy ASEAN thành khu vực đầu tư hấp dẫn nhất; củng cố và tăng cường tính cạnh tranh của các lĩnh vực kinh tế của ASEAN; giảm dần hoặc loại bỏ những quy định và điều kiện đầu tư có thể cản trở các dòng đầu tư và sự hoạt động của các dự án đầu tư trong ASEAN; và đảm bảo rằng việc thực hiện những mục tiêu trên sẽ góp phần hướng tới tự do luân chuyển đầu tư vào năm 2020.

Theo Hiệp định khung về đầu tư ASEAN, các quốc gia thành viên cam kết thực hiện các biện pháp thích hợp để bảo đảm tính rõ ràng và nhất quán trong việc áp dụng và giải thích các luật, quy định và thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư của nước mình nhằm tạo ra và duy trì một chế độ đầu tư có thể dự đoán trước được trong ASEAN. Đồng thời, các bên phải mở ngay lập tức tất cả các ngành nghề của nước mình cho đầu tư của các nhà đầu tư ASEAN và dành ngay lập tức cho các nhà đầu tư ASEAN và đầu tư của họ, đối với tất cả các ngành nghề và các biện pháp có tác động tới các đầu tư đó, bao gồm, nhưng không chỉ giới hạn ở việc tiếp nhận, thành lập, nắm giữ, mở rộng, quản lý, vận hành và định đoạt đầu tư, sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho các nhà đầu tư và đầu tư tương tự của nước mình ("đối xử quốc gia") (khoản 1 Điều 7). Các quốc gia sẽ tự xây dựng Danh mục loại trừ tạm thời và một Danh mục nhạy cảm, nếu có, trong vòng 6 tháng kể từ ngày ký Hiệp định, bao gồm bất kỳ ngành nghề hoặc biện pháp nào có tác động đến đầu tư mà Quốc gia đó không thể mở cửa hoặc dành đối xử quốc gia cho các nhà đầu tư ASEAN. Các danh mục này sẽ tạo thành một phụ lục của Hiệp định này. Như vậy, với cam kết này, Việt Nam sẽ hoàn toàn không có giới hạn về tỷ lệ sở hữu, lĩnh vực đầu tư đối với các nước ASEAN. Các nước thành viên ASEAN có thể tiến hành hoạt động M&A trong bất cứ lĩnh vực, ngành nghề nào tại Việt Nam, trừ các ngành nghề nằm trong danh mục loại trừ.

2.2.3. Các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư

Hiên

nay, Viêṭ Nam đã ký kết khoảng 54 Hiêp

điṇ h khuyến khích đầu tư với

các nước như Hiệp định khuyến khích đầu tư Việt Nam - Xingapore năm 1992,

Hiêp

điṇ h khuyến khích đầu tư Viêṭ Nam - Áo năm 1995... Các hiệp định khuyến

khích và bảo hộ đầu tư mà Việt Nam đã ký kết có nội dung tương đối thống nhất


theo mô hình các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư truyền thống trên thế giới.

Các hiệp định này chỉ bao gồm cam kết về bảo hộ đầu tư, tức là cam kết đối xử thuận lợi với các khoản đầu tư đã được đầu tư trên lãnh thổ nước mình. Các cam kết về tự do hoá đầu tư, tức là cam kết về mở cửa thị trường hay dành quyền thành lập doanh nghiệp trên lãnh thổ nước chủ nhà không nằm trong phạm vi của các hiệp định này. Do vậy, các hiệp định này thường không có nhiều quy định liên quan đến mua bán, sáp nhập doanh nghiệp, tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam.

2.2.4 Các cam kết quốc tế về đầu tư song phương có yếu tố tự do hoá

Các cam kết này có thể kể đến như Hiệp định khuyến khích , bảo hộ và tự do

hoá đầu tư Việt Nam - Nhật Bản ngày 14/11/2003 và Hiêp điṇ h giưã Viêṭ Nam -

Hoa Kỳ về quan hê ̣thương maị có hiêu

lưc

̀ ngày 10/12/2001. Bên cạnh cam kết

về bảo hộ đầu tư, Việt Nam còn cam kết về quyền thành lập đối với nhà đầu tư nước ngoài. Hai hiệp định này đều sử dụng phương pháp chọn bỏ (negative list approach), tức là đưa ra các cam kết chung và các Bên ký kết có quyền duy trì hoặc ban hành các biện pháp không phù hợp với các nghĩa vụ chung này và phải liệt kê các biện pháp đó trong một hoặc một số phụ lục.

Tuy nhiên, Chương Phát triển Quan hệ Đầu tư trong Hiệp định Thương mại Song phương với Hoa Kỳ chỉ điều chỉnh về tự do hoá đầu tư đối với đầu tư trong các ngành phi dịch vụ. Đối với các ngành dịch vụ, liên quan đến tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia, Danh mục cam kết cụ thể của Chương Thương mại Dịch vụ xây dựng theo phương pháp chọn cho (positive list approach) sẽ được ưu tiên áp dụng. Trong khi đó, Hiệp định Khuyến khích, Bảo hộ và Tự do hoá đầu tư Việt Nam - Nhật Bản cam kết tiếp cận thị trường với tất cả các ngành, kể cả dịch vụ và phi dịch vụ, theo phương pháp chọn bỏ.

Tại Phụ lục H của Hiệp định giữa Viêṭ Nam - Hoa Kỳ về quan hê ̣thương maị , Việt Nam cam kết với Hoa Kỳ hóa bỏ mọi hạn chế về việc chuyển nhượng vốn đầu tư. Theo đó, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài không bắt buộc phải ưu tiên chuyển nhượng cho doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, Phụ lục H cũng cam kết


về việc cho phép NĐT Hoa Kỳ thành lập CTCP có vốn đầu tư nước ngoài và nới lỏng các hạn chế về sở hữu vốn của nhà đầu tư Hoa Kỳ, trong vòng 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, NĐT Hoa Kỳ được phép thành lập CTCP có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam..

Ngoài ra, tại Hiệp định Tự do hóa, khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam – Nhật Bản. Việt Nam không cho phép nhà đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực khai thác hải sản ở vùng lãnh hải, nội thủy, đặc quyền kinh tế. Vì vậy, Nhật Bản không được tham gia vào các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực trên tại Việt Nam.

2.2.5 Hiệp định thương mại tự do có cam kết về đầu tư

Các Hiệp định thương mại tư do có cam kết về Đầu tư mà Việt Nam đã ký kết bao gồm:

- Hiệp định Hợp tác Kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA): Nội dung về đầu tư của Hiệp định này dẫn chiếu đến toàn bộ Hiệp định Khuyến khích, Bảo hộ và Tự do hoá đầu tư Việt Nam - Nhật Bản nên không nghiên cứu ở phần này;

- Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA) : Đây là một hiệp định về đầu tư độc lập, trong khuôn khổ hợp tác kinh tế của Cộng đồng ASEAN. Hiệp định này thay thế hai hiệp định về đầu tư của ASEAN đã ký trước đây là Hiệp định Khu vực Đầu tư ASEAN (về tự do hoá và thuận lợi hoá đầu tư, ký năm 1998) và Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư ASEAN (IGA –ký năm 1986) ;

- Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN – Australia & New Zealand (AANZFTA). Đây là một Hiệp định trọn gói (single undertaking), trong đó Chương Đầu tư được đàm phán và ký kết cùng lúc với các chương khác của Hiệp định.

- Hiệp định đầu tư trong khuôn khổ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA)

- Hiệp định đầu tư trong khuôn khổ Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA).

Các hiệp định ACIA, AKFTA và AANZFTA có đặc điểm chung nổi bật là (i) bao gồm cả cam kết bảo hộ và tự do hoá đầu tư (ii) cam kết tự do hoá được xây dựng theo phương pháp chọn bỏ (negative list approach). Tuy nhiên, cam kết cụ thể của hai hiệp định này cũng có nhiều điểm khác biệt đáng kể, phù hợp với tính chất khác nhau của các đối tác đàm phán.


Ngược lại Hiệp định đầu tư trong ACIA chỉ có cam kết về bảo hộ đầu tư, do đó không liên quan nhiều đến việc mua bán, sáp nhập doanh nghiệp. Việc tham gia góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài vào doanh nghiệp Việt Nam theo Hiệp định này được thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam.

Nhờ có các văn bản quốc tế về đầu tư nên việc đầu tư quốc tế tại Việt Nam ngày càng tăng mạnh, đặc biệt trong năm năm trở lại đây kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO. Đầu tư Việt Nam ra nước ngoài, tính đến hết tháng 2/2011, Việt Nam đã có 575 dự án đầu tư vào 55 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới với tổng số vốn đăng ký đạt trên 23,7 tỷ USD. Trong đó phần vốn của các doanh nghiệp Việt Nam đã vượt 10 tỷ USD [44].

Trong quý I năm 2013 đã có 22 dự án đầu tư ra nước ngoài được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đầu tư là 720,7 triệu USD. Quy mô vốn đầu tư đăng ký trung bình cho một dự án đạt trên 32,7 triệu USD và có 5 lượt dự án tăng vốn đầu tư, với tổng vốn đầu tư tăng thêm đạt 1,9 tỷ USD. Trong đó có dự án Công ty liên doanh Rusvietpetro của Tập đoàn dầu khí Việt Nam tại Liên bang nga tăng vốn đầu tư lên tới 1,4 tỷ USD và dự án thăm dò muối mỏ tại Lào của Tổng công ty hóa chất Việt Nam tăng vốn 518,9 triệu USD. Tính chung cả vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm của các doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài trong Quý I năm 2013 đạt 2,65 tỷ USD. [43]

Đối với đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tính lũy kế đến ngày 15/12/2012, đã có 98 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư vào Việt Nam với 14.489 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đầu tư đăng ký là 213,6 tỷ USD. Trong đó, Nhật Bản là nhà đầu tư lớn nhất, chiếm 13,6% tổng vốn đăng ký tiếp theo lần lượt là Đài Loan, Hàn Quốc và Singapore.

Tiểu kết: Có thể nhận thấy , Viêṭ Nam đã có hê ̣thống các văn bản luâṭ quốc tế khá đầy đủ và đa dạng nhằm góp phần đẩy mạnh đầu t ư ngước ngoài vào Viêṭ Nam

và đầu tư Việt Nam ra nước ngoài . Tuy nhiên , viêc

nôị luâṭ hóa các quy điṇ h nay

diên

ra hết sứ c châm

chap

và han

chế , khiến cả hai hướng đầu tư này đều găp

kho

khăn. Điều này khiến viêc

M &A có yếu tố nước ngoài bi ̣cản trở rất lớn . Viêc

nôi

luâṭ hóa các Hiêp điṇ h, cam kêt́ quốc tế này trong tương lai gâǹ là điêù rất cần thiêt́ .

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 10/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí