Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 159 BLTTDS thì “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, ...bị xâm phạm;”
Thực tế cho thấy việc quy định thời hiệu như trên là quá ngắn, không đảm bảo lợi ích cho các bên tranh chấp, hạn chế quyền tự định đoạt của đương sự. Nhiều trường hợp các bên tranh chấp mất quyền khởi kiện chỉ vì trong khoảng thời gian đó họ còn đang tìm kiếm các giải pháp thương lượng, hòa giải, hoặc đơn giản là họ còn đang cân nhắc việc có khởi kiện hay không thì đã hết thời hiệu khởi kiện.
Về ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm là ngày nào, hiện cũng còn những cách hiểu và áp dụng khác nhau. Nguyên nhân chính cũng do quy định của pháp luật thiếu rõ ràng. Trên thực tế, rất khó xác định được ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Có thể sau rất nhiều ngày quyền và lợi ích của NĐT bị xâm hại, có khi NĐT mới được biết. Vì vậy nếu lấy ngày quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm để tính thời hiệu khởi kiện là không chính xác, không bảo vệ được lợi ích chính đáng cho các đương sự
Thứ tư, Công tác thi hành án kinh tế hiện nay đạt kết quả rất thấp, không đáp ứng được lợi ích mà các đương sự mong đợi. Tình trạng này có nguyên nhân chung là do khâu tổ chức thi hành án ở nước ta còn yếu, thiếu những điều kiện về cơ sở vật chất và con người để thực hiện công tác thi hành án khẩn trương, nghiêm túc. Bên cạnh đó, một nguyên nhân không kém phần quan trọng là do cơ chế pháp luật của chúng ta về thi hành án kinh tế chưa phù hợp.
Việc thi hành án đầu tư được thực hiện theo Luật thi hành án dân sự. Quy định này cũng có những điểm hợp lý nhưng nhìn chung chưa thể nói là phù hợp. Nếu áp dụng y nguyên cơ chế pháp lý thi hành án dân sự mà không có những giải pháp riêng cho phù hợp với đặc thù của án kinh tế thì hiệu quả thi hành thấp là điều tất yếu.
Trên đây là những hạn chế cơ bản của pháp luật tố tụng kinh tế hiện hành. Chúng cần được nghiên cứu, nhìn nhận một cách nghiêm túc để có những giải pháp khắc phục kịp thời. Nếu không những hạn chế này sẽ làm giảm đáng kể những cố gắng của chúng ta trong việc bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự nói riêng, quyền tự do kinh doanh nói chung trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp.
- Quyền tự do huy động vốn trong quá trình kinh doanh
Bên cạnh quy định của Điều 16 LĐT 2005 về quyền huy động vốn của NĐT, LĐN 2005 quy định NĐT có quyền “Lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn.” (Khoản 2 Điều 8 LDN 2005). NĐT có thể sử dụng mọi phương thức hợp pháp để huy động vốn không bị pháp luật hạn chế. LĐT quy định cụ thể một số quyền năng sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Nội Dung Bảo Đảm Quyền Tự Do Kinh Doanh Đối Với Nhà Đầu Tư
- Các Quy Định Pháp Luật Trong Nước Về Đảm Bảo Quyền Tự Do Kinh Doanh Đối Với Nhà Đầu Tư
- Pháp Luật Về Đảm Bảo Quyền Đầu Tư Và Giao Dịch Trong Quá Trình Kinh Doanh Của Nhà Đầu Tư
- Pháp Luật Về Đảm Bảo Quyền Tự Do Cạnh Tranh Trong Hoạt Động Đầu Tư
- Các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam - 8
- Đảm Bảo Quyền Tự Do Kinh Doanh Cho Các Nhà Đầu Tư Theo Các Văn Bản Luật Quốc Tế Mà Việt Nam Ký Kết.
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
Quyền chuyển nhượng, điều chỉnh vốn hoặc dự án đầu tư (Điều 17 LĐT 2005)
Vay vốn từ tổ chức cá nhân, tổ chức tín dụng. NĐT được thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn tại tổ chức tín dụng (Điều 18 LĐT)
Quyền tiếp cận, sử dụng nguồn lực đầu tư (Điều 14 LĐT 2005)
Nếu NĐT thành lập công ty cổ phần gắn với dự án đầu tư, NĐT có quyền phát hành chứng khoán để huy động vốn theo LCK 2006. Theo đó, LCK 2006 ghi nhận pháp luật “Tôn trọng quyền tự do mua, bán, kinh doanh và dịch vụ chứng khoán của tổ chức, cá nhân” (Khoản 1 Điều 4)
2.1.3. Pháp luật về đảm bảo quyền sỡ hữu tài sản
Quyền sở hữu tài sản hiện nay được hiểu bao gồm ba quyền năng chính: Quyền chiếm hữu tài sản, quyền sử dụng tài sản và quyền định đoạt tài sản (Điều 164 BLDS). Đảm bảo quyền sở hữu tài sản cho CĐT là đảm bảo cả ba quyền năng này.
Pháp luật nước ta hiện nay bảo đảm quyền sở hữu tài sản ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, đảm bảo quyền sở hữu của các thành phần kinh tế khác nhau đối với tư liệu sản xuất. Hiến pháp 1992 xác nhận sự tồn tại khách quan của nhiều thành phần kinh tế với những hình thức sở hữu khác nhau đối với tư liệu sản xuất "... cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng" (Điều 15 Hiến pháp 1992).
Sau Hiến pháp (1992), hàng loạt các đạo luật đã được ban hành nhằm cụ thể hóa những quy định về sở hữu đã được Hiến pháp (1992) khẳng định như: Luật Đất đai (2003), Luật Hợp tác xã (2003), Luật đầu tư (2005), Luật Thương mại (2005),
Luật Các tổ chức tín dụng (2010), Luật Doanh nghiệp (2005). Đặc biệt là Bộ luật Dân sự (2005) đã mở rộng đáng kể các chủ thể có quyền sở hữu tư liệu sản xuất.
Bên cạnh việc đa dạng hóa chủ thể của quyền sở hữu, pháp luật còn quy định quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản cũng có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình theo thỏa thuận với chủ sở hữu tài sản đó hoặc theo quy định của pháp luật (Điều 173 BLDS). Việc pháp luật thừa nhận người không phải là chủ sở hữu tài sản cũng có quyền đối với tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về phương diện kinh tế và pháp lý. Nó thúc đẩy sự sinh lợi liên tục và có hiệu quả nhất của các loại tài sản. Trong thực tế, chủ sở hữu đối với tài sản có thể trực tiếp chiếm hữu, sử dụng tài sản của mình để kinh doanh, cũng có thể thông qua người khác để kinh doanh.
Như vậy, các quy định hiện hành của pháp luật nước ta về sở hữu đã thể hiện khá rõ nét yếu tố thứ nhất của quyền sở hữu tư liệu sản xuất: mở rộng chủ thể có quyền sở hữu tư liệu sản xuất.
Thứ hai, mở rộng khách thể của quyền sở hữu.
Theo quan niệm truyền thống của luật dân sự thì đối tượng sở hữu (khách thể của quyền sở hữu) là tài sản, tài sản được hiểu theo nghĩa hẹp, tức là những tài sản hữu hình. Cùng với sự phát triển của kinh tế, của khoa học kỹ thuật khái niệm tài sản thuộc đối tượng của sở hữu ngày càng được mở rộng. Tài sản trong nền kinh tế tri thức phải được hiểu là bất cứ giá trị nào, chứ không đơn thuần chỉ là những tài sản hữu hình. Có thể nói trong thời đại ngày nay, đối tượng của quyền sở hữu thay đổi cùng với sự phát triển của khái niệm tài sản. Sự đa dạng của các loại tài sản và sự chuyển hóa, sự biến đổi của các loại hình sở hữu đối với chúng đòi hỏi pháp luật phải có những phản ứng thích hợp. Pháp luật hiện hành ở nước ta đã và đang có cách tiếp cận theo xu hướng chung của pháp luật các nước trên thế giới là mở rộng phạm vi đối tượng của sở hữu.
Điều 163 Bộ luật Dân sự 2005 xác định tài sản với tư cách là khách thể của quyền sở hữu bao gồm:
+ Vật , tiền và các giấy tờ có giá
+ Các quyền tài sản.
Các quy định trên cho thấy khách thể của quyền sở hữu rất đa dạng; đồng thời cũng nói lên rằng: bất kỳ cá nhân, tổ chức có được các tài sản nêu trên theo một trong các căn cứ được quy định tại Điều 163 Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật khác có liên quan đều trở thành chủ sở hữu tài sản đó. Việc mở rộng khách thể của quyền sở hữu có ý nghĩa quan trọng vì nó làm phong phú các quan hệ, tạo ra nhiều loại chủ sở hữu khác nhau mà trước đây pháp luật không biết đến. Đồng thời, nó cũng làm cho việc bảo vệ các tài sản này trở nên có cơ sở hơn.
Thứ ba, thiết lập những hình thức pháp lý thích hợp bảo đảm cho sự vận động của các quan hệ sở hữu được an toàn, thuận tiện và sinh lợi.
Thực chất pháp luật đã đáp ứng đòi hỏi khách quan của hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Các nhà kinh doanh đưa tài sản thuộc quyền sở hữu của mình vào quá trình kinh doanh thông qua các hành vi như góp vốn, chuyển nhượng vốn, liên doanh liên kết, mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ... Tất cả những hoạt động này đều gắn liền với sự vận động (chuyển dời) của sở hữu. Sự chuyển dời của sở hữu, nếu không được đảm bảo an toàn, sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của các nhà kinh doanh và cũng sẽ không thúc đẩy được các giao lưu kinh tế thương mại phát triển. Căn cứ vào đặc điểm của từng hình thức sở hữu, đặc điểm của từng loại tài sản là đối tượng của sở hữu, việc xác lập, chuyển dịch, chấm dứt quyền sở hữu được thực hiện theo những hình thức pháp lý thích hợp.
Thứ tư, pháp luật quy định việc bảo vệ quyền sở hữu.
Quyền sở hữu được Nhà nước bảo hộ bằng pháp luật. Việc bảo vệ quyền sở hữu được thực hiện ở hai mức độ. Một mặt, Nhà nước quy định phạm vi những quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để chủ sở hữu thực hiện các quyền sở hữu của mình một cách an toàn, đầy đủ nhất. Mặt khác, Nhà nước quy định biện pháp pháp lý cụ thể để dựa vào đó, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp bảo vệ quyền sở hữu của mình, chẳng hạn:
- Chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản, khi tài sản thuộc sở hữu của họ rời khỏi chủ sở hữu ngoài ý muốn của họ và đang bị người khác chiếm giữ bất hợp pháp.
- Có quyền yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sở hữu.
- Quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi xâm hại gây ra.
Việc thực hiện các quyền nói trên được thể hiện bằng các biện pháp khác nhau. Chủ sở hữu có thể tự mình thực hiện để bảo vệ, ngăn chặn các hành vi xâm hại tới quyền sở hữu của mình; họ cũng có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc chấm dứt những hành vi đó hoặc khởi kiện trước Tòa án.
Ngoài phương thức bảo vệ quyền sở hữu theo thủ tục của luật dân sự, việc bảo vệ quyền sở hữu còn được thực hiện theo thủ tục hành chính và hình sự. Việc bảo vệ quyền sở hữu tư liệu sản xuất theo trình tự của pháp luật hành chính được thực hiện bằng các biện pháp như: đăng ký tài sản, đăng ký kinh doanh; xử phạt hành chính đối với các hành vi vi phạm quyền sở hữu. Pháp luật hình sự bảo vệ quyền sở hữu bằng cách quy định những hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu là tội phạm và quy định mức hình phạt tương ứng với hành vi vi phạm đó.
Trong hoạt động đầu tư, ngoài các quy định về bảo đảm quyền sở hữu tài sản nói chung như phân tích ở trên, LĐT 2005 còn khẳng định rõ: “Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư; thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của các hoạt động đầu tư” (Khoản 3 điều 4)
Theo đó, tại Điều 6 LĐT 2005, Nhà nước Việt Nam cam kết:
- Vốn đầu tư và tài sản hợp pháp của nhà đầu tư không bị quốc hữu hóa, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính.
- Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua, trưng dụng tài sản của nhà đầu tư thì nhà đầu tư được thanh toán hoặc bồi thường theo giá thị trường tại thời điểm công bố việc trưng mua, trưng dụng. Việc thanh toán hoặc bồi thường phải bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư. Đối với nhà đầu tư nước ngoài, việc thanh toán hoặc bồi thường tài sản được thực hiện bằng đồng tiền tự do chuyển đổi và được quyền chuyển ra nước ngoài.
Quyền sở hữu đối với tài sản của CĐT còn được ghi nhận tại LDN 2005:
Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của doanh nghiệp.
Từ chối mọi yêu cầu cung cấp các nguồn lực không được pháp luật quy định. (Điều 8 LDN 2005)
Đối với quyền sở hữu trí tuệ của các NĐT, LĐT 2005 quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động đầu tư; bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong việc chuyển giao công nghệ tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ và các quy định khác của pháp luật có liên quan.” (Điều 7)
Riêng đối với các NĐT nước ngoài, Nhà nước công nhận quyền sở hữu đối với lợi nhuận mà NĐT có được trong quá trình đầu tư. Sau khi hoàn thành các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam, NĐT nước ngoài được chuyển ra nước ngoài các tài sản sau:
- Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh;
- Những khoản tiền trả cho việc cung cấp kỹ thuật, dịch vụ, sở hữu trí tuệ;
- Tiền gốc và lãi các khoản vay nước ngoài;
- Vốn đầu tư, các khoản thanh lý đầu tư;
- Các khoản tiền và tài sản khác thuộc sở hữu hợp pháp của nhà đầu tư.
Người nước ngoài làm việc tại Việt Nam cho các dự án đầu tư được chuyển ra nước ngoài thu nhập hợp pháp của mình sau khi thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam.
Việc chuyển ra nước ngoài các khoản trên được thực hiện bằng đồng tiền tự do chuyển đổi theo tỷ giá giao dịch tại ngân hàng thương mại do nhà đầu tư lựa chọn.
Thủ tục chuyển ra nước ngoài các khoản tiền liên quan đến hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối.
Tại luận văn này, do hạn chế về nguồn tài liệu tham khảo và thời gian nghiên cứu hạn chế, tác giả chỉ tập trung phân tích bảo đảm của pháp luật về tài sản đối với NĐT trong mô hình công ty cổ phần như một minh chứng.
Trong công ty cổ phần, việc thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản được thực hiện qua: Bản thân chủ đầu tư; chủ sở hữu công ty, đại diện chủ sở hữu công ty và đại diện theo pháp luật của công ty. Cụ thể như sau:
+ Với bản thân CĐT: CĐT trong công ty cổ phần là người góp vốn vào công ty cổ phần hay còn gọi là cổ đông, theo đó, CĐT thực hiện quyền năng của mình như sau:
Quyền chiếm hữu: Sau khi cổ đông góp vốn và công ty cổ phần, cổ đông được ghi nhận trong sổ đăng ký cổ đông công ty (Điều 86 LDN 2005).
Quyền sử dụng: Cổ đông được hưởng cổ tức trên số cổ phần mà mình có theo quyết định của chủ sở hữu công ty – Đại hội đồng cổ đông (Điểm b khoản 1 Điều 79 LDN 2005)
Quyền định đoạt: cổ đông được tự do chuyển nhượng cổ phần cho người khác hoặc tặng cho, thừa kế, di tặng, trả nợ. Tuy nhiên nếu là cổ đông sáng lập công ty thì trong vòng 3 năm đầu tiên nếu muốn chuyển nhượng cổ phần thì phải có sự đồng ý của đại hội đồng cổ đông (Điểm d Khoản 1 Điều 79 LDN)
+ Thực hiện quyền sở hữu tài sản thông qua đại hội đồng cổ đông: Quyết định đầu tư hoặc bán số tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty nếu Điều lệ công ty không quy định một tỷ lệ khác (Điểm b khoản 2 Điều 98)
+ Thực hiện quyền sở hữu tài sản thông qua Hội đồng quản trị
Quyết định phương án đầu tư và dự án đầu tư trong thẩm quyền và giới hạn theo quy định của Luật này hoặc Điều lệ công ty;
Quyết định giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị và công nghệ; thông qua hợp đồng mua, bán, vay, cho vay và hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty
+ Thực hiện quyền sở hữu tài sản thông qua Giám đốc hoặc Tổng giám đốc: Quyết định các vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh hằng ngày của công ty mà không cần phải có quyết định của Hội đồng quản trị;
Bên cạnh việc quy định các quyền năng trong việc sở hữu tài sản, LDN 2005 cũng quy định các biện pháp bảo đảm quyền sở hữu tài sản cho công ty bằng việc phân cấp quản lý (như đã trình bày ở trên) và kiểm soát các giao dịch tư lợi.
“Hợp đồng, giao dịch giữa công ty với các đối tượng sau đây phải được Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị chấp thuận:
a) Cổ đông, người đại diện uỷ quyền của cổ đông sở hữu trên 35% tổng số cổ phần phổ thông của công ty và những người có liên quan của họ;
b) Thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc;
c) Doanh nghiệp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 118 của Luật này và người có liên quan của thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc.” (Khoản 1 Điều 120 LDN 2005)
Đây là quy định rất hợp lý nhưng hiệu quả cho việc bảo đảm quyền sở hữu tài sản của NĐT là không cao vì LDN để một phần thẩm quyền này cho hội đồng quản trị, mà hội đồng quản trị là những người nắm cổ phần chủ yếu trong công ty bầu ra. Phần lớn các giao dịch trong công ty là do các thành viên hội đồng quản trị thiết lập, do đó khó đảm bảo tính minh bạch và khách quan của hoạt động này.
2.1.4. Pháp luật về đảm bảo quyền tự do hợp đồng trong hoạt động đầu tư
a. Quyền được tự do, bình đẳng, tự nguyện giao kết hợp đồng
Tự do GKHĐ là nguyên tắc cơ bản của GKHĐ nói chung. Theo đó, dù thiết lập quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực nào (dân sự, thương mại hay lao động), các chủ thể đều được tự do về mặt ý chí, không có chủ thể nào có quyền áp đặt ý chí để bắt buộc hay ngăn cản chủ thể khác GKHĐ. Quyền tự do GKHĐ xuất phát từ bản chất của hợp đồng. Hợp đồng là sự thỏa thuận và thống nhất về mặt ý chí giữa các chủ thể, nhưng không phải tất cả những thỏa thuận giữa các chủ thể đều là hợp đồng. Sự thỏa thuận chỉ có thể trở thành hợp đồng khi ý chí của các chủ thể được thể hiện (trong sự thỏa thuận) phù hợp với “ý chí thực” của họ. Với yêu cầu đó, tự
do trong GKHĐ phải được ghi nhận là một nguyên tắc cơ bản2.
Quyền tự do GKHĐ được thể hiện trong pháp luật hợp đồng khá nhất quán. Điều 389 BLDS 2005 quy định việc GKHĐ dân sự được thực hiện theo các nguyên tắc: “1. Tự do GKHĐ nhưng không trái pháp luật, đạo đức xã hội; 2. Tự nguyện bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng”. Điều 11 Luật TM 2005 quy định nguyên tắc tự do, tự nguyện thoả thuận trong hoạt động thương mại: “1. Các bên có quyền tự do thoả thuận không trái với các quy định của pháp luật, thuần