2001“Xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế đảm bảo quyền tự do kinh doanh ở nước ta”.
Ngoài ra, vấn đề hoàn thiện pháp luật kinh tế còn thu hút sự chú ý của nhiều đề tài khoa học thuộc dự án do các tổ chức quốc tế thực hiện như: Dự án của UNDP mang tên Tăng cường năng lực pháp luật tại Việt Nam (Dự án VIE/94/003), mà nội dung chính là xây dựng khung pháp luật kinh tế phù hợp với nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Nhìn chung, các bài viết, các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh và ở các mức độ khác nhau của quyền tự do kinh doanh. Luận án tiến sỹ của thầy Bùi Ngọc Cường nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này nhưng thời điểm nghiên cứu là năm 2001, so với thời điểm hiện tại, pháp luật về đảm bảo quyền tự do kinh doanh ở nước ta giai đoạn hiện nay đã có thay đổi khá nhiều. Tuy nhiên chưa có một công trình nghiên cứu có hệ thống khía cạnh các biện pháp bảo đảm quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp và nhất là thực trạng của pháp luật kinh tế trong việc đảm bảo quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp ở nước ta hiện nay, trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị để xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế đảm bảo quyền tự do kinh doanh cho các doanh nghiệp
3. Phạm vi nghiên cứu
Quyền tự do kinh doanh là vấn đề rất nhạy cảm có quan hệ mật thiết với nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội và pháp luật. Pháp luật là phương tiện quan trọng nhất đảm bảo cho quyền tự do kinh doanh được thực hiện và phát huy giá trị tích cực trong cuộc sống. Do quyền tự do kinh doanh được pháp luật điều chỉnh trên tất cả các khía cạnh của đời sống pháp luật nên đề tài chỉ tập trung làm rõ các biện pháp bảo đảm quyền tự do kinh doanh đối với nhà đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam. Đối với nhà đầu tư khi thực hiện hoạt động đầu tư, pháp luật quy định đầy đủ từ quá trình khởi tạo việc đầu tư, quá trình hoạt động đầu tư và quy trình cơ cấu lại việc đầu tư nhưng đề tài chỉ nghiên cứu việc nhà đầu tư tiến hành quá trình hoạt động đầu tư bỏ vốn tạo lợi nhuận và được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư.
4. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
Căn cứ vào những quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cũng như từ thực tiễn xây dựng pháp luật trong thời gian qua, mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ quan niệm về quyền tự do kinh doanh, vai trò của pháp luật kinh tế đối với việc đảm bảo quyền tự do kinh doanh. Trên cơ sở đó tìm ra những định hướng, giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế đảm bảo quyền tự do kinh doanh ở nước ta.
Để thực hiện mục đích đó, nhiệm vụ của luận án là:
Có thể bạn quan tâm!
- Các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam - 1
- Nội Dung Bảo Đảm Quyền Tự Do Kinh Doanh Đối Với Nhà Đầu Tư
- Các Quy Định Pháp Luật Trong Nước Về Đảm Bảo Quyền Tự Do Kinh Doanh Đối Với Nhà Đầu Tư
- Pháp Luật Về Đảm Bảo Quyền Đầu Tư Và Giao Dịch Trong Quá Trình Kinh Doanh Của Nhà Đầu Tư
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền tự do kinh doanh ; từ đó xác định đúng đắn bản chất, nội dung, những yếu tố chi phối quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư
- Nghiên cứu, lý giải vai trò của pháp luật kinh tế trong việc đảm bảo quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư
- Phân tích, đánh giá thực trạng những nội dung cơ bản của quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp theo quy định pháp luật kinh tế hiện hành.
- Đề ra những định hướng và giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế đảm bảo quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở các phương pháp sau:
+ Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử;
+ Phương pháp nghiên cứu hệ thống;
+ Phương pháp lịch sử, logic;
+ Phương pháp phân tích, so sánh;
+ Phương pháp thống kê, tổng hợp.
6. Kết cấu tổng quan của Luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH
VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH ĐỐI VỚI NHÀ ĐẦU TƯ
1.1 . Khái niệm kinh doanh, đầu tư và quyền tự do kinh doanh
1.1.1. Khái niệm kinh doanh
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm về kinh doanh hay hoạt động kinh doanh.
Dưới góc độ kinh tế, kinh doanh là một phạm trù gắn liền với sản xuất hàng hóa, là tổng thể các hình thức, phương pháp và biện pháp nhằm tổ chức các hoạt động kinh tế.
Kinh doanh phản ánh mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi tiêu dùng của cải vật chất xã hội nhằm thu về một giá trị lớn hơn giá trị đã bỏ ra ban đầu.
Ở nước ta, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp trước đây đã có quan niệm không đầy đủ, không đúng về kinh doanh. Kinh doanh được hiểu theo nghĩa rất hẹp, kinh doanh được coi là một phần của quá trình tái sản xuất, cụ thể là chỉ gắn với hoạt động lưu thông, trao đổi, là buôn bán. Thậm chí, có người còn ác cảm với kinh doanh, coi kinh doanh là con đường dẫn tới bóc lột. Do vậy, chỉ có các tổ chức kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh, tập thể) mới được phép kinh doanh, còn các thành phần kinh tế khác thì bị hạn chế và cấm đoán.
Ở nước ta, khái niệm kinh doanh được định nghĩa lần đầu trong Luật Công ty (1990). Theo quy định tại Điều 3 thì: "Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi". (Điều 3 Luật công ty 1990)
Khái niệm kinh doanh được khẳng định lại trong Luật Doanh nghiệp (1999) (khoản 2 Điều 3) và Luật doanh nghiệp 2005.
Luật doanh nghiệp 2005 định nghĩa kinh doanh là “Việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ
sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi" (Theo khoản 2 Điều 4).
So với luật công ty 1990 thì Luật doanh nghiệp 1999 và Luật doanh nghiệp 2005 chỉ thay đổi cụm từ “thực hiện dịch vụ” bằng cụm từ “cung ứng dịch vụ”. Đây chỉ là sự thay đổi nhỏ nhưng nó đúng và chính xác hơn bởi dịch vụ là hàng hóa vô hình, quá trình bàn giao và quá trình tiếp nhận sản phẩm của người mua và người bán là đồng thời nhau.
Hoạt đông kinh doanh trong một số trường hợp được hiểu như hoạt động thương mại, khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005 giải thích: Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Với khái niệm trên, kinh doanh đã được hiểu một cách đầy đủ, đúng đắn bao gồm tất cả các hoạt động như: đầu tư, sản xuất, trao đổi, dịch vụ nếu các hoạt động này nhằm mục đích sinh lợi. Hoạt động này không nhất thiết phải bao gồm tất cả các công đoạn để đạt đến kết quả cuối cùng mà chỉ cần một trong các hoạt động nói trên là đủ, miễn sao hoạt động đó có mục đích sinh lợi. Với khái niệm này, kinh doanh có nội dung rất rộng và ở mức độ khái quát có thể đưa ra những dấu hiệu đặc trưng sau:
• Kinh doanh là hoạt động mang tính nghề nghiệp. Điều đó có nghĩa là trong xã hội đã có những người, nhóm người, tổ chức mà nghề nghiệp chính của họ là kinh doanh, họ sống bằng nghề kinh doanh. Kinh doanh mang tính thường xuyên, liên tục, ổn định và lâu dài.
• Kinh doanh là hành vi diễn ra trên thị trường. Cụ thể, hoạt động kinh doanh phản ánh mối quan hệ giữa các nhà kinh doanh với nhau, với xã hội nói chung thông qua các quan hệ mua bán, trao đổi, … Những quan hệ này tự nó phản ánh quan hệ hàng hóa – tiền tệ.
• Mục đích của kinh doanh là lợi nhuận. Đây là dấu hiệu rất quan trọng để phân biệt hành vi kinh doanh với các hoạt động khác. Khi xác định mục đích sinh lời trong hành vi kinh doanh cần hiểu ý định thu lợi nhuận của hành vi mới là tiêu
chí quyết định, còn việc có đạt được lợi nhuận hay không cũng như việc sử dụng lợi nhuận đạt được cho mục đích gì không phải là dấu hiệu quyết định.
Một trong những đòi hỏi mang tính quy luật của nền kinh tế thị trường là phải bảo đảm quyền tự do kinh doanh cho con người. Vấn đề này bắt nguồn từ yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường là sự tồn tại những hình thức sở hữu khác nhau, của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh. Đồng thời nó cũng phù hợp với xu thế vận động phát triển của xã hội trong thế giới văn minh hiện đại.
1.1.2. Khái niệm đầu tư
Khái niệm đầu tư hiện nay được nhìn dưới nhiều góc độ khác nhau.
a) Dưới góc độ kinh tế
Dưới góc độ kinh tế, đầu tư được quan niệm là hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế, xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó. Đầu tư là nhân tố không thể thiếu để phát triển và xây dựng kinh tế, là chìa khóa của sự tăng trưởng kinh tế. Các nguồn lực để đầu tư có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ. Trong cơ chế thị trường, hoạt động đầu tư có thể do những chủ thể khấc nhau (cá nhân, tổ chức) tiến hành và ngày càng phong phú, đa dạng cả về tính chất lẫn mục đích. Tuy vậy, mọi hoạt động đầu tư đều nhằm mang lại những lợi ích xác định như sự tăng lên về tài sản vật chất, trí tuệ hay nguồn nhân lực cho xã hội. Kết quả đầu tư không chỉ là lợi ích trực tiếp cho NĐT mà còn mang lại lợi ích cho nền kinh tế và toàn xã hội.
b) Dưới góc độ chính trị - xã hội
Dưới góc độ chính trị - xã hội, đầu tư được hiểu một cách thông thường là việc bỏ nhân lực, vật lực vào một công việc nào đó trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế, xã hội, tức là trên cơ sở những thứ đã và đang có làm nền tẳng tạo nên sự phát triển hơn trong tương lai. Đại từ điển tiếng Việt đưa ra định nghĩa về đầu tư là “Bỏ sức lực, thời gian, trí tuệ để làm việc gì”. [3]
c) Dưới góc độ pháp lý
Ở Việt Nam, trước khi có Luật đầu tư 2005, khái niệm đàu tư kinh doanh còn chưa được định nghĩa thống nhất trong các văn bản pháp luật. Luật khuyến khích
đầu tư trong nước sửa đổi ngày 20/5/1998 và Luật đầu tư nước ngoài (1996, 2000) không có định nghĩa về Luật đầu tư nói chung mà thay vào đó là các khái niệm đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam thực chất chỉ điều chỉnh các quan hệ đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam, các hoạt động đầu tư gián tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam không chịu sự điều chỉnh của Luật này.
Năm 2005, Quốc hội đã ban hành Luật đầu tư chung, theo đó, khái niệm đầu tư lần đầu được ghi nhận một cách chính thức. Theo khoản 1 Điều 3 Luật đầu tư, “Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.” Luật đầu tư 2005 cũng phân biệt rõ khái niệm đầu tư và hoạt động đầu tư, theo đó, hoạt động đầu tư được hiểu “là hoạt động của nhà đầu tư trong quá trình đầu tư bao gồm các khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện và quản lý dự án đầu tư” (Khoản 7 Điều 3).
Từ khái niệm trên, có thể thấy đầu tư có những đặc điểm sau:
- Các NĐT phải bỏ một lượng vốn nhất định để tiến hành đầu tư.
Trong hoạt động đầu tư, NĐT phải đích thân bỏ vốn đêt tiến hành đầu tư. Vốn đầu tư theo quy định tại Khoản 9 Điều 3 LĐT 2005 là “tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp.”
Tuy nhiên, theo định nghĩa về đầu tư theo khoản 1 Điều 3 LĐT 2005 thì vốn đầu tư là "loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư"
Theo định nghĩa tại Điều 163 BLDS 2005 “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”
Như vậy có thể thấy, “tài sản” theo định nghĩa của LĐT có phạm trù rộng hơn định nghĩa trong BLDS bởi tài sản theo BLDS chỉ bao gồm tài sản hữu hình (vật, tiền, giấy tờ có giá) và quyền tài sản, đình nghĩa theo LĐT thì tài sản bao gồm cả tài sản hữu hình và vô hình. Tài sản vô hình không chỉ bao gồm quyền tài sản.
- Mục đích của đầu tư là nhằm sinh lợi nhuận.
Đầu tư là một hoạt động thương mại (Theo Điều 1 khoản 3 Luật thương mại 2005, đầu tư được liệt kê là một hoạt động thương mại). NĐT bỏ một lượng vốn nhất định trong hiện tại với mong muốn sẽ thu về một lượng lớn hơn trong tương lai. Nếu không vì mục đích lợi nhuận, NĐT sẽ không tiến hành đầu tư.
- Đầu tư mang tính rủi ro.
Mục đích của NĐT khi tiến hành đầu tư là hướng đến lợi nhuận. Tuy nhiên không phải trong mọi trường hợp NĐT đều thực hiện được mục tiêu này. Có thể NĐT bị mất cả lượng vốn ban đầu bởi nguyên nhân nào đó không lường trước được dẫn đến việc đầu tư không có hiệu quả.
Khái niệm đầu tư trong LĐT 2005 đã chỉ ra được một số đặc điểm của đầu tư.
Tuy nhiên, khái niệm này còn nhiều hạn chế bởi :
- Thứ nhất : Nhà làm luật dùng các khái niệm đang cần làm rõ để giải thích, lấy cái chưa biết để giải thích cho nhau, như vậy là không phù hợp với logic ngôn ngữ. Trong khái niệm “đầu tư”, nhà làm luật sử dụng các thuật ngữ “nhà đầu tư”, “hoạt động đầu tư” để giải thích. Khi giải thích thuật ngữ “nhà đầu tư”, “hoạt động đầu tư” nhà làm luật lại dùng chính khái niệm “đầu tư” để giải thích. Điều này tạo ra một cách hiểu luẩn quẩn không thoát ý.
- Thứ hai: Như đã phân tích ở trên, tại BLDS không định nghĩa “tài sản” giống như LĐT 2005. Chưa có văn bản nào quy định hay giải thích thế nào là tài sản vô hình, thế nào là tài sản hữu hình dù thực tế đời sống vẫn hay dùng khái niệm này. Chính vì vậy thực tế áp dụng pháp luật đã gây ra nhiều tranh cãi.
- Thứ ba: Khái niệm vốn tại khoản 1 và khoản 9 Điều 3 LĐT 2005 chưa thống nhất. Vốn tại khoản 1 Điều 3 LĐT 2005 là “tài sản hữu hình hoặc vô hình” trong khi vốn theo quy định tại khoản 9 điều 3 LĐT 2005 là “tiền và các tài sản hợp pháp khác”
1.1.3. Khái niệm quyền tự do kinh doanh
Trong hệ thống các quyền tự do của công dân, quyền tự do kinh doanh (QTDKD) là một bộ phận hợp thành khá quan trọng. Nó được hình thành trên cơ sở quyền con người nói chung. “Một mặt, quyền con người mang tính chất tự nhiên, do đó không phải Nhà nước (hoặc bất cứ ai) là kẻ ban tặng cho con người cái quyền
vốn có của họ. Mặt khác, khi chưa được Nhà nước quy phạm hóa bằng pháp luật thì các quyền con người chưa được xã hội thừa nhận, cũng có nghĩa là chưa chính thức ra đời. Vai trò của Nhà nước chính là ở chỗ đáp ứng được nhu cầu về quyền cá nhân con người trong xã hội, biết phát hiện nhu cầu hiện thực của việc xuất hiện các quyền con người để sớm thể chế hóa và bảo vệ bằng pháp luật” [9, tr. 19].
Bất cứ nền kinh tế hàng hóa nào cũng tồn tại nhu cầu tự do kinh doanh. Tuy nhiên, trong các xã hội khác nhau và ở trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể thì mức độ đảm bảo việc thực hiện nhu cầu tự do kinh doanh cũng khác nhau. Sự khác nhau về tính hoàn thiện, tính hiệu quả của hệ thống pháp luật là một trong những nhân tố quyết định cho việc đảm bảo thực hiện quyền tự do kinh doanh. Tiến trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế cho thấy việc xác định mức độ bảo đảm việc thực hiện QTDKD gắn với các quy định pháp luật thực hiện quyền này là yêu cầu mang tính thực tiễn.
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi, theo đó, QTDKD đã chính thức trở thành quyền được thừa nhận về chính trị - pháp lý. Đến Hiến pháp 1992 thì QTDKD đã trở thành quyền hiến định: "Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật" (Điều 57). Mặc dù trên thế giới, khái niệm QTDKD từ lâu đã được sử dụng phổ biến và rộng rãi, nhưng trong pháp luật Việt Nam, đây là vấn đề có khá nhiều tài liệu của rất nhiều tác giả khác nhau, ở những phạm vi và mức độ khác nhau đề cập đến.
Theo cách hiểu thông thường, thì “Quyền” được hiểu là những điều mà mình được làm. Theo Từ điển Tiếng Việt, “Quyền” được hiểu là “Điều mà pháp luật hoặc xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi”. Theo Từ điển Luật học “Quyền” được hiểu “là khái niệm khoa học pháp lý dùng để chỉ những điều mà pháp luật công nhận và đảm bảo thực hiện đối với cá nhân, tổ chức để theo đó cá nhân được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn cản, hạn chế [39].
Quyền của chủ thể trong quan hệ pháp luật được hiểu là “Quyền chủ thể trong quan hệ pháp luật là khả năng xử sự của những người tham gia quan hệ được quy