xác định hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành
truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy gây ra.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, cũng là tội phạm rất nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu chỉ thuộc một trong hai trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật hoặc chỉ gây hậu quả rất nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp hình phạt dưới bảy năm tù nhưng không được dưới ba năm tù; nếu thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật hoặc tuy chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 nhưng tập trung nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười lăm năm tù.
4. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng.
Có thể bạn quan tâm!
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 4 Điều 250 Bộ Luật Hình Sự
- Tội Dụ Dỗ, Ép Buộc Hoặc Chứa Chấp Người Chưa Thành Niên Phạm Pháp
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 1 Điều 253 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 3 Điều 254 Bộ Luật Hình Sự
- Bình luận khoa học bộ luật hình sự Tập 9 - Đinh Văn Quế - 35
- Bình luận khoa học bộ luật hình sự Tập 9 - Đinh Văn Quế - 36
Xem toàn bộ 294 trang tài liệu này.
32. TỘI CHỨA MẠI DÂM
Điều 254. Tội chứa mại dâm
1. Người nào chứa mại dâm thì bị phạt tù từ
một năm đến bảy năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm:
a) Có tổ chức;
b) Cưỡng bức mại dâm;
c) Phạm tội nhiều lần ;
d) Đối với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi; đ) Gây hậu quả nghiêm trọng;
e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:
a) Đối với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội gây hậu quả mươi năm hoặc tù chung thân.
đặc biệt nghiêm trọng thì bị
phạt tù hai
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế từ một năm đến năm năm.
Định nghĩa: Chứa mại dâm là hành vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm.26
Tội chứa mại dâm là tội phạm đã được quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1985 cùng với tội môi giới mại dâm. Do yêu cầu của việc cá thể hoá trách nhiệm hình sự nên Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hai tội này ở hai điều luật khác nhau.
So với Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 254 Bộ luật hình sự năm 1999 về cơ bản không có nhiều sửa đổi, bổ sung. Điều 254 Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ bổ sung trường hợp phạm tội có tổ chức là yếu tố định khung hình phạt quy định tại điểm a khoản 2 của điều luật. Ngoài ra, mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 2 của điều luật được giảm xuống còn năm năm, khoản 3 của điều luật xuống còn mười hai năm (khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1985 là bảy năm, còn khoản 3 là mười lăm năm); hình phạt bổ sung được quy định ngay trong cấu thành và bổ sung loại hình phạt tịch thu toàn bộ tài sản mà Điều 218 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định.
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này không phải là chủ thể đặc biệt, chỉ cần đến một độ tuổi nhất định và không mất năng lực trách nhiệm hình sự đều có là chủ thể của tội phạm này.
Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 của điều luật; người đủ 16
26 Khoản 4 Điều 3 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm ngày 17-3-2003 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này không phân biệt thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật.
2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm
Tội chứa mại dâm là tội xâm phạm đến đạo đức, thuần phong, mỹ tục, đến đời sống văn hoá, trật tự trị an xã hội.
3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan
Người phạm tội thực hiện duy nhất một hành vi, đó là hành vi chứa chấp việc mại dâm với nhiều thủ đoạn khác nhau như: sử dụng, thuê, cho
thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện để dâm, bán dâm.
thực hiện việc mua
Khi xác định hành vi phạm tội chứa mại dâm trong một số trường hợp cần chú ý:
- Chứa mại dâm là chứa việc mua dâm, bán dâm, tức là phải có cả người mua lẫn người bán và hai người phải thực hiện việc giao cấu, bởi lẽ bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác còn mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vận chuyển khác trả cho người bán dâm để được giao cấu27. Nếu chỉ chứa người bán dâm (gái mại dâm) còn việc mua, bán dâm được
thực hiện
ở địa điểm khác không phải là địa điểm người bán dâm
ở thì
người có hành vi chứa người bán dâm không phạm tội chứa mại dâm; nếu người có địa điểm cho gái mại dâm thuê mà giới thiệu cho người mua dâm thì hành vi “giới thiệu” đó là hành vi môi giới mại dâm. Ví dụ: A là chủ nhà nghỉ cho H, T và Q là gái mại dâm thuê một phòng để ở, mỗi lần có người mua dâm có nhu cầu thì A báo cho các gai bán dâm biết để bán dâm.
- Địa điểm mà người phạm tội sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn,
cho mượn để thực hiện việc mua dâm, bán dâm tương đối đa dạng; có thể
chỉ là một chiếc thuyền (ghe); một lều vó, một phòng nhỏ trong quán Cà phê, nhà tắm, nhà vệ sinh, cacbin xe.v.v...
- Phương tiện mà người phạm tội sử dụng, thuê, cho thuê hoặc
mượn, cho mượn để thực hiện việc mua dâm, bán dâm tuy không phải là
27 Khoản 1 và khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm ngày 17-3-2003 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
địa điểm nhưng có phục vụ cho việc thực hiện mại dâm như: Giường,
chiếu, chăn màn, khăn lau, thuốc kích dục.v.v... Trường hợp cung cấp các phương tiện tránh thai như: Bao cao su, thuốc tránh thai cho người bán dâm thì cần phải phân biệt: nếu biết có việc mại dâm mà cung cấp thì mới bị coi là chứa mại dâm, nếu biết là gái bán dâm mà cung cấp thuốc tránh thai
hoặc bao cao su còn việc thực hiện hành vi mại dâm ở đâu vào lúc nào
người cung cấp bao cao su không biết thì không bị coi là chứa mại dâm.
- Trường hợp dùng tiền thuê địa điểm, trả tiền cho người bán dâm nhưng để người khác giao cấu với người bán dâm thì cũng coi là hành vi chứa mại dâm.
- Trường hợp chứa hai người đồng giới để họ làm tình với nhau thì không coi là hành vi chứa mại dâm vì không có việc giao cấu.
- Trong trường hợp chủ hoặc người quản lý khách sạn, nhà trọ... gọi gái mại dâm đến cho khách để họ mua bán dâm ngay tại khách sạn, nhà
trọ...
thuộc quyền sở
hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của người gọi gái
mại dâm thì người đó chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về “tội chứa mại dâm”28.
- Trong trường hợp chủ hoặc người quản lý khách sạn, nhà trọ... vừa gọi gái mại dâm đến cho khách để họ mua bán dâm ngay tại khách sạn, nhà trọ... thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của người gọi gái mại dâm vừa còn gọi gái mại dâm khác cho khách mua dâm khác để họ thực hiện việc mua bán dâm tại nơi khác thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về “tội chứa mại dâm” và “tội môi giới mại dâm”29.
b. Hậu quả
Đối với tội chứa mại dâm, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, nếu gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì tuỳ trường hợp người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của điều luật.
28 29 Nghị quyết số 02/2003 NQ-HĐTP ngày 17-4-2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự.
2
c. Các dấu hiệu khách quan khác
Đối với tội chứa mại dâm tuy nhà làm luật không quy định các dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm nhưng không vì thế mà cho rằng không cần phải nghiên cứu các quy định của Nhà nước có liên quan đến mại dâm mà đặc biệt là Pháp lệnh phòng, chống mại
dâm ngày 17-3-2003 của Uỷ
ban Thường vụ
Quốc hội. Đây được là văn
bản giải thích chính thức về tội chứa mại dâm và tội môi giới mại dâm. Ngoài ra, còn các văn bản của Chính phủ của các cơ quan, tổ chức liên quan đến phòng chống mại dâm.
4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội chứa mại dâm thực hiện hành vi của mình là do cố ý, tức là người phạm tội biết rõ việc sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn,
cho mượn địa điểm, phương tiện là để người khác thực hiện việc mua
dâm, bán dâm. Nếu vì một lý do nào đó mà người có hành vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện nhưng không biết người thuê, người mượn thực hiện việc mua dâm, bán dâm thì cũng không phạm tội chứa mại dâm. Ví dụ: Vũ Thị H là chủ khách sạn “Phượng Đỏ”. Ngày 12-3-2005 Cơ quan cảnh sát điều tra bắt quả tang tại các phòng 304, 306 có hai đôi nam nữ đang hoạt động mại dâm; Cơ quan cánh sát điều tra đã lập biên bản và yêu cầu Vũ Thị H ký vì đã có hành vi chứa mại dâm; vì là chủ khách sạn nên Vũ Thị H đã ký vào biên bản. Do điều tra không đầy
đủ nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố Vũ Thị H về tội
chứa mại dâm, nhưng tại phiên toà sơ thẩm, Vũ Thị H khai rằng, ngày 12-
3-2005 Vũ Thị
H cùng gia đình đi nghỉ
mát
ở Đà Lạt, mọi việc quản lý
khách sạn giao cho Đỗ Tuấn A là em rể của H, từ trước tới nay tại khách sạn “Phượng Đỏ” chưa để xảy ra hoạt động mại dâm. Do có tình tiết mới mà Toà án cấp sơ thẩm không thể àm rõ tại phiên toà được nên Hội đồng xét xử đã hoãn phiên toà trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Kết quả điều tra bổ sung đã xác định lời khai của Vũ Thị H tại phiên toà là đúng nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định đình chỉ vụ án đối với Vũ Thị H vì hành vi của H không cấu thành tội phạm.
Động cơ
của người phạm tội chứa mại dâm chủ
yếu là do tư
lợi
hoặc vì động cơ cá nhân khác; động cơ phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, việc xác định động cơ của người phạm tội cũng rất quan trọng có ý nghĩa đến việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội; động cơ càng xấu mức hình phạt sẽ càng nặng và ngược lại.
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 254 Bộ luật hình sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 254 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội chứa mại dâm có thể bị phạt tù từ một năm đến bảy năm, là tội phạm nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt, nếu người phạm tội, nếu có nhiều tình tiết
giảm nhẹ
quy định tại Điều 46 Bộ
luật hình sự, không có tình tiết tăng
nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp hình phạt dưới một năm tù; nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến bảy năm tù.
Đối với tội chứa mại dâm trong tình hình hiện nay, nói chung là cần phải xử phạt nghiêm khắc để góp phần chặn đứng và đẩy lùi tệ nạn này; việc cho người phạm tội được hưởng án treo phải rất thận trọng và chỉ trong trường hợp cá biệt.
2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 254 Bộ luật hình sự
a. Có tổ chức.
Cũng như trường hợp phạm tội có tổ chức khác, phạm tội chứa mại dâm có tổ chức là trường hợp có sự câu kết chặt chẽ giữa những người
cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ người xúi dục, người giúp sức.
chức, người thực hành,
b. Cưỡng bức mại dâm.
Cưỡng bức mại dâm là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn buộc người khác phải thực hiện việc bán dâm30
30 Khoản 6 Điều 3 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm ngày 17-3-2003 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
Như vậy, hành vi cưỡng bức mại dâm chỉ cưỡng bức đối với người bán dâm, chứ không bao gồm cưỡng bức người mua dâm nhưng không vì thế mà cho rằng trong thực tế không có hành vi cưỡng bức người mua dâm. Tuy nhiên, nếu cưỡng bức người chưa thành niên mua dâm thì người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội ép buộc người chưa thành
niên phạm tội quy định tại Điều 252 Bộ luật hình sự. Nếu cưỡng bức
người bán dâm nhưng lại không thuộc trường hợp chứa mại dâm thì người có hành vi cưỡng bức có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội môi giới mại dâm.
c. Phạm tội nhiều lần.
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội nhiều lần đối với các tội phạm khác, tức là chứa mại dâm từ hai lần trở lên.
Tuy nhiên, khi xác định trường hợp phạm tội mại dâm nhiều lần cần
chú ý:
Nếu cùng một lúc người phạm tội chứa hai đôi mại dâm trở lên ở
nhiều địa điểm khác nhau thì cần phân biệt:
- Nếu tất cả
những người mua dâm cử
một người thuê địa điểm
(phòng ngủ) rồi giao chìa khoá phòng cho những người mua dâm để thực
hiện việc mại dâm thì chỉ người.
coi là một lần phạm tội nhưng đối với nhiều
- Nếu từng người mua dâm thuê địa điểm (phòng ngủ), mặc dù người chứa mại dâm cùng một lúc đưa chìa khóa phòng cho từng người mua dâm thì phải coi là trường hợp phạm tội nhiều lần.
d. Đối với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như đối với các trường hợp phạm tội khác đối với người chưa thành niên, nhưng người chưa thành niên quy định ở đây là người ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 và là người mua dâm hoặc bán dâm. Nếu đó là người bán dâm và người phạm tội lại có hành vi cưỡng bức buộc họ phải bán dâm thì người phạm tội thuộc cả hai trường hợp: “cưỡng bức mại dâm” và “đối với người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi”.
đ. Gây hậu quả nghiêm trọng.
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự
như
một số
trường hợp
phạm tội quy định tại các tội phạm khác. Do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi chứa mại dâm gây ra nên có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng, để xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi chứa mại dâm gây ra.
e. Tái phạm nguy hiểm.
Cũng tương tự
như
trường hợp tái phạm nguy hiểm khác, người
phạm tội chứa mại dâm thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là người đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 254 Bộ luật hình sự hoặc đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội chứa mại dâm.
Như vậy, người phạm tội chứa mại dâm thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm chỉ có thể là trường hợp đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà
lại phạm tội chứa mại dâm, vì nếu đã bị
kết án
về tội rất nghiêm trọng,
tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 254 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của điều luật rồi. Tuy nhiên, nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật thì người phạm tội phải bị áp dụng 2 tình tiết định khung hình phạt đó là: “tái phạm nguy hiểm” và tình tiết tương ứng quy định tại khoản 2 của điều luật.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật thì
người phạm tội có thể phạm rất nghiêm trọng.
bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm, là tội
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu chỉ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được