trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại
phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 Điều 254 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của điều luật rồi. Tuy nhiên, nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật thì người phạm tội phải bị áp dụng 2 tình tiết định khung hình phạt đó là: “tái phạm nguy hiểm” và tình tiết tương ứng quy định tại khoản 2 của điều luật.
e. Đối với nhiều người
Môi giới mại dâm đối với nhiều người là trường hợp một lần hoặc nhiều lần môi giới mại dâm đối với từ hai người trở lên. Nếu nhiều lần môi giới, nhưng mỗi lần chỉ môi giới đối với một người thì không bị coi là đối với nhiều người, nhưng nếu mỗi lần môi giới đối với nhiều người thì thuộc cả hai trường hợp: “phạm tội nhiều lần” và “đối với nhiều người”.
g. Gây hậu quả nghiêm trọng khác.
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự
Có thể bạn quan tâm!
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 1 Điều 253 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Thuộc Một Trong Các Trường Hợp Sau Đây, Thì Bị Phạt Tù Từ Năm Năm Đến Mười Lăm Năm:
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 3 Điều 254 Bộ Luật Hình Sự
- Bình luận khoa học bộ luật hình sự Tập 9 - Đinh Văn Quế - 36
Xem toàn bộ 294 trang tài liệu này.
như
một số
trường hợp
phạm tội quy định tại các tội phạm khác. Do chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng khác do hành vi môi giới mại dâm gây ra nên có
thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-
BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng, để xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi môi giới mại dâm gây ra.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ ba năm đến mười năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu chỉ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp hình phạt dưới ba năm tù nhưng được dưới sáu tháng năm; nếu thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, trong đó có tình tiết tái phạm nguy hiểm và có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48
Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười năm tù.
3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 255 Bộ luật hình sự
a. Đối với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như đối với các trường hợp phạm tội quy định tại điểm a khoản 2 Điều 254 Bộ luật hình sự, người ở độ tuổi từ đủ 13 đến dưới 16 cũng là người mua dâm hoặc bán dâm.
b. Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều 254 Bộ luật hình sự nên có thể vận dụng Thông
tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25
tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Bộ
Công an, Bộ Tư
pháp hướng dẫn áp dụng một số
quy định tại
Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 đối
với trường hợp gây hậu quả
rất nghiêm trọng, để
xác định hậu quả
rất
nghiêm trọng do hành vi môi giới mại dâm gây ra.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu chỉ thuộc một trong hai trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp hình phạt dưới bảy năm tù nhưng không được dưới ba năm tù; nếu thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật hoặc tuy chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 nhưng tập trung nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết tăng nặng quy định
tại Điều 48 Bộ
luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ
hoặc nếu có
nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười lăm năm tù.
4. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 255 Bộ luật hình sự
Tương tự như đối với Điều 254 Bộ luật hình sự, khoản 4 Điều 255
Bộ luật hình sự, nhà làm luật chỉ
quy định một tình tiết là yếu tố
định
khung hình phạt, đó là: gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 254 Bộ luật hình sự nên có thể vận dụng Thông tư liên
tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12
năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ
Công an, Bộ Tư
pháp hướng dẫn áp dụng một số
quy định tại Chương
XIV"Các tội xâm phạm sở
hữu" của Bộ
luật hình sự
năm 1999 đối với
trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, để xác định hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi môi giới mại dâm gây ra.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 của điều luật thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu chỉ gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, không thuộc trường hợp nào quy định tại khoản 2, khoản 3 của điều luật nữa và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp hình phạt dưới mười hai năm tù nhưng không được dưới bảy năm tù; nếu vừa gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng vừa tập trung nhiều tình tiết quy định tại khoản 2, khoản 3 của điều luật và có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến hai mươi năm tù.
5. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị một triệu đồng đến mười triệu đồng.
phạt tiền từ
34. TỘI MUA DÂM NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Điều 256. Tội mua dâm người chưa thành niên
1. Người nào mua dâm người chưa thành niên từ dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
đủ 16 tuổi đến
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến tám năm:
a) Phạm tội nhiều lần;
b) Mua dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi;
c) Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
tuổi;
a) Phạm tội nhiều lần đối với trẻ
em từ
đủ 13 tuổi đến dưới 16
b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;
c) Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên.
4. Người phạm tội còn bị triệu đồng.
phạt tiền từ
năm triệu đồng đến mười
Định nghĩa: Mua dâm người chưa thành niên là hành vi dùng tiền
hoặc lợi ích khác trả cho người bán dâm dưới 18 tuổi để được giao cấu.
Tội mua dâm người chưa thành niên là tội phạm đã được quy định tại
Điều 202a Bộ
luật hình sự
năm 1985 theo luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Bộ luật hình sự được Quốc hội thông qua ngày 10-5-1997 do yêu cầu đấu tranh phòng chống loại hành vi này xảy ra khá phổ biến.
So với Điều 202a Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 256 Bộ luật hình sự năm 1999 về cơ bản không có nhiều sửa đổi, bổ sung lớn vì tội
phạm này mới được bổ sung. Tuy nhiên, do yêu cầu của việc đấu tranh
phòng chống tội phạm này trong tình hình mới nên nhà làm luật bổ sung một số tình tiết là yếu tố định khung hình phạt như: mua dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% (được quy định tại khoản 2 của điều luật); bổ sung khoản 3 của điều luật với các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt như: phạm tội nhiều lần đối với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi; biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên.
Ngoài khoản 4 quy định hình phạt bổ sung, thì Điều 256 cấu tạo
thành 3 khoản nên khung hình phạt ở khoản 2 và khoản 3 được sửa đổi cho
phù hợp (khoản 2 từ ba năm đến tám năm, khoản 3 từ bảy năm đến mười lăm năm), nhưng mức hình phạt thấp nhất và cao nhất của tội điều luật so với Điều 202a không thay đổi (từ một năm đến mười lăm năm)
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Cũng tương tự
như
đối với tội chứa mại dâm và tội môi giới mại
dâm, chủ thể của tội phạm này cũng không phải là chủ thể đặc biệt, người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật; người đủ 16 tuổi
trở
lên phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm này không phân biệt
thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật.
Nói chung chủ thể của tội phạm này là nam giới, nhưng trong một số trường hợp có cả phụ nữ.
2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm
Tội mua dâm người chưa thành niên là tội xâm phạm đến sự phát
triển bình thường của người chưa thành niên về thể chất, tâm sinh lý, đồng thời xâm phạm đến trật tự trị an xã hội.
Đối tượng tác động của tội phạm này là người chưa thành niên
nhưng phải là từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi và những người này phải là người bán dâm, nếu họ không phải là người bán dâm thì cũng không gọi mua dâm mà tuỳ trường hợp người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giao cấu với trẻ em quy định tại Điều 115 Bộ luật hình sự.
3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan
Hành vi mua dâm của người phạm tội được thực hiện với thủ đoạn
khác nhau như: dùng tiền dùng tiền hoặc lợi ích khác trả cho người bán
dâm để được giao cấu.
Khi xác định hành vi mua dâm người chưa thành niên cần chú ý: Việc
mua dâm không diễn ra không giống như việc mua bán hàng hoá bình
thường khác nhất là đối với trẻ em từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi. Người bán dâm có thể bị cưỡng bức, bị mua chuộc dụ dỗ nên mới bán dâm; vì vậy, nếu trong quá trình giao cấu người được coi là “bán dâm” có biểu hiện của sự không đồng ý như chống cự, van xin hoặc miễn cưỡng để người mua dâm giao cấu thì tuỳ trường hợp người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm, cưỡng dâm, chứ không phải là mua dâm. Vụ án Lương Quốc Dũng ở Hà Nội là một ví dụ. Mặc dù Dũng cho rằng mình chỉ bỏ tiền ra mua dâm nhưng người bị hại là người bị người khác
mua chuộc dụ
dỗ đến khách sạn để
Dũng thực hiện hành vi giao cấu;
trước khi thực hiện việc giao cấu, người bị hại đã phản ứng đòi về, doạ mách mẹ và không đồng ý nhưng Dũng đã đe doạ buộc người bị hại phải miễn cưỡng, mặt khác trong hoàn cảnh chỉ có một mình trong phòng nên không thể chống cự phải miễn cưỡng để Dũng giao cấu. Trong quá trình
giải quyết vụ án cũng có nhiều ý kiến cho rằng Dũng chỉ phạm tội mua
dâm người chưa thành niên hoặc tội giao cấu với trẻ em, nhưng các cơ
quan tiến hành tố
tụng vẫn truy cứu trách nhiệm hình sự
Lương Quốc
Dũng về tội hiếp dâm.
b. Hậu quả
Đối với tội mua dâm, có thể gây ra những hậu quả nhưng nó không
phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, nếu gây ra
thiệt hại đến sức khoẻ cho người bán dâm có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 hoặc khoản 3 của điều luật.
c. Các dấu hiệu khách quan khác
Cũng như đối với các tội liên quan đến mại dâm, tội mua dâm người chưa thành niên khi xác định hành vi phạm tội cần phải nghiên cứu các quy
định của Nhà nước có liên quan đến mại dâm mà đặc biệt là Pháp lệnh
phòng, chống mại dâm ngày 17-3-2003 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội mau dâm người chưa thành niên thực hiện hành vi
của mình là do cố ý, tức là người phạm tội biết rõ việc mình bỏ tiền hoặc lợi ích vật chất ra là để trả cho người bán dâm và được giao cấu với người bán dâm
Động cơ của người phạm tội là thoả mãn dục vọng là chủ yếu. Tuy nhiên, cũng có trường hợp người phạm tội vì những động cơ cá nhân khác như trả thù, truyền bệnh cho người bán dâm…
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 256 Bộ luật hình sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 256 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội mua dâm người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị phạt tù từ một đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng.
Khoản 1 của điều luật không phải là cấu thành cơ bản của tội phạm mà chỉ là một cấu thành giảm nhẹ độc lập với các khoản khác, vì nếu coi là cấu thành cơ bản thì chỉ mua dâm đối với người từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi mới phạm tội mua dâm người chưa thành niên còn mua dâm người dưới 16 tuổi sẽ không phạm tội này.
Khi quyết định hình phạt, nếu người phạm tội có nhiều tình tiết
giảm nhẹ
quy định tại Điều 46 Bộ
luật hình sự, không có tình tiết tăng
nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp hình phạt dưới một năm tù; nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến năm năm tù. Về nguyên tắc, nếu các Toà án khác của vụ án như nhau thì tuổi của người bán dâm càng thấp thì hình phạt đối với người phạm tội phải càng cao.
2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 256 Bộ luật hình sự
a. Phạm tội nhiều lần.
Mua dâm người chưa thành niên nhiều lần là từ hai lần mua dâm
người chưa thành niên trở lên nhưng không có lần nào thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật. Nếu có trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật thì không áp dụng tình tiết phạm tội nhiều lần để áp dụng khoản 2 của điều luật nữa; nếu mua dâm người chưa thành niên nhiều lần nhưng có một lần thuộc trường hợp quy định tại điểm b hoặc điểm c
khoản 2 của điều luật thì người phạm tội vừa bị áp dụng tình tiết phạm tội nhiều lần và tình tiết quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 2 của điều luật.
b. Mua dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Theo quy định của Luật bảo vệ
và chăm sóc trẻ
em thì trẻ
em là
người dưới 16 tuổi nên điểm b khoản 2 điều luật quy định mua dâm trẻ em mà không quy định mua dâm người chưa thành niên, nhưng dù là trẻ em thì cũng là người chưa thành niên. Khi xác định trường hợp phạm tội này, chỉ cần xác định tuổi của người bán dâm, mà không cần xác định người phạm tội có biết hay không biết người bán dâm bao nhiêu tuổi. Đây cũng là vấn đề thực tiễn xét xử còn nhiều ý kiến khác nhau nhưng cơ quan tiến hành tố tụng đã không thừa nhận lời bào chữa của người phạm tội rằng họ không biết người bán dâm dưới 16 tuổi.
c. Gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 61%.
Trường hợp phạm tội này là trường hợp do hành vi giao cấu với người bán dâm mà gây tổn hại cho sức khoẻ của người bán dâm có tỷ lệ
thương tật từ 31% đến 60%. Nếu người bán dâm vì những nguyên nhân
khác mà bị
tổn hại sức khoẻ
thì người phạm tội không phải chịu trách
nhiệm về việc tổn hại sức khoẻ đó. Ví dụ: Vũ Thị M là học sinh trung học nhưng đã nhiều lần bán dâm cho khách. Ngày 20-12-2004 M bán dâm cho một khách nước ngoài thì bị bắt quả tang. Do xấu hổ và lo sợ bị đuổi học,
bị bố mẹ ruồng bỏ, bạn bè xa lãnh nên đã uống thuốc độc tự tử nhưng
được cấp cứu nên không chết chỉ bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật là 35%.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật thì người phạm tội có thể bị phạt tù từ ba năm đến tám năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu chỉ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp hình phạt dưới ba năm tù nhưng được dưới một năm tù; nếu thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, trong đó có tình tiết