Về cấu tạo, Điều 96 Bộ luật hình sự năm 1985 có 3 khoản, còn Điều 232 Bộ luật hình sự năm 1999 cấu tạo thành 5 khoản trong đó khoản 5 của điều luật quy định hình phạt bổ sung; hình phạt quy định trong từng khoản cũng được quy định lại cho phù hợp với cấu tạo của điều luật. ( mức hình phạt cao nhất ở khoản 2 là mười năm; của khoản 3 là mười lăm năm; của khoản 4 là tù chung thân)
Bổ sung một số
tình tiết là yếu tố định khung hình phạt như:
vận
chuyển, sử dụng, mua bán qua biên giới; vật phạm pháp có số lượng rất lớn, đặc biệt lớn; gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng;
Bỏ tình tiết “phạm tội rong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng” là
yếu tố định khung hình phạt.
Có thể bạn quan tâm!
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 1 Điều 230 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 3 Điều 230 Bộ Luật Hình Sự
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 1 Điều 231 Bộ Luật Hình Sự
- Tội Chế Tạo, Tàng Trữ, Vận Chuyển, Sử Dụng, Mua
- Tội Vi Phạm Quy Định Về Quản Lý Vũ Khí, Vật Liệu Nổ, Công Cụ Hỗ Trợ
- Phạm Tội Thuộc Các Trường Hợp Quy Định Tại Khoản 4 Điều 234 Bộ Luật Hình Sự
Xem toàn bộ 294 trang tài liệu này.
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
Các dấu hiệu cơ bản của tội phạm này cũng tương tự như đối với tội “chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự” chỉ khác ở chỗ đối
tượng tác động của tội phạm này là vật liệu nổ
chứ
không phải vũ khí
quân dụng, phương tiện kỹ
thuật quân sự. Tuy nhiên, để
tiện theo dõi
chúng tôi vẫn phân tích các dấu hiệu cơ bản của tội phạm này và nêu
những dấu hiệu khác nhau giữa tội phạm này với tội
“chế
tạo, tàng trữ,
vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân
dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự”
1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này cũng không phải là chủ thể đặc biệt, chỉ cần người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đến một độ tuổi theo quy định của Bộ luật hình sự thì đều có thể trở thành chủ thể của tội phạm này.
sự về
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình tội phạm này thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và
khoản 4 của điều luật; người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm này không phân biệt thuộc trường hợp quy định tại
khoản nào của điều luật.
2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm
Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ là tội xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với vật liệu nổ.
Đối tượng tác động của tội phạm này là vật liệu nổ
Khi xác định đối tượng tác động của tội phạm này cần chú ý: Nếu vật liệu nổ là vật liệu nổ quân dụng thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng”, chỉ vật liệu nổ công nghiệp mới là đối tượng của tội phạm này.
Vật liệu nổ công nhiệp mới là đối tượng của tội phạm này; việc
quản lý, sử dụng vật liệu nổ công nghiệp được thực hiện theo Quy chế
quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (Ban hành theo Nghị định số
47/CP, ngày 12-8-1996); Nghị
định 27/CP ngày 20-4-1995 và Nghị
định
02/CP ngày 5-1-1995 của Chính phủ về quản lý, sản xuất, cung ứng và sử dụng vật liệu nổ công nghiệp.
3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan
Người phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ thực hiện hành vi khách quan hoàn toàn
tương tự như đối với người phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khi quân dụng, phương tiên kỹ thuật quân sự được quy định tại Điều 230 Bộ luật hình sự, nên chúng tôi không phân tích lại.
Tuy nhiên, do đối tượng tác động của tội phạm này chỉ là vật liệu nổ
công nghiệp nên khi xác định hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt cần chú ý đến các quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng, mua bán, vận chuyển vật liệu nổ để xác định hành vi khách quan của người phạm tội.
b. Hậu quả
Hậu quả của hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ cũng không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với tội phạm này nhưng việc xác định hậu quả là rất cần thiết.
Nếu hậu quả xảy ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt
nghiêm trọng thì tuỳ trường hợp, người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của điều luật.
c. Các dấu hiệu khách quan khác
Tương tự như tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, ngoài hành vi khách quan, nếu chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán vạt liệu nổ phải là trái phép thì mới cấu thành tội phạm, nếu việc chế
tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán vật liệu nổ
được phép thì
không thuộc trường hợp phạm tội quy định tại Điều 232 Bộ luật hình sự.
Việc xác định hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ có trái phép hay không, cần căn cứ vào quy định của Nhà nước mà cụ thể là căn cứ vào Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (Ban hành theo Nghị định số 47/CP, ngày 12-8-1996); Nghị định 27/CP ngày 20-4-1995 và Nghị định 02/CP ngày 5-1- 1995 của Chính phủ về quản lý, sản xuất, cung ứng và sử dụng vật liệu nổ công nghiệp.
4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội thực hiện hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử
dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ là
do cố
ý, tức là
người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là trái phép nhưng vẫn thực hiện.
Nếu vì lý do nào đó mà người phạm tội không nhận thức được hoặc không buộc phải nhận thức được hành vi của mình là trái phép thì không thuộc trường hợp phạm tội này.
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 232 Bộ luật hình sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 232 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 232 Bộ luật hình sự có thể bị phạt tù từ một năm đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng.
Khoản 1 của điều luật tuy không quy định số lượng vật liệu nổ làm
căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng theo hướng dẫn tại Thông tư
liên ngành số 01/TTLN ngày 7-1-1995 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đã hướng dẫn áp
dụng Điều 95, Điều 96 Bộ
luật hình sự
năm 1985 thì người bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 96 Bộ luật hình sự năm 1985 nếu chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
thuốc nổ
các loại từ
1kg đến 15kg; thuốc pháo từ
3kg đến 30kg; thuốc
phóng từ 1kg đến 10kg; dây cháy chậm, dây nổ từ 500m đến 3000m; kíp nổ, nụ xuỳ từ 200 cái đến 1000 cái.
Nếu chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt dưới mức trên nhưng đã bị xâm phạm hành chính về hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
vật liệu nổ
hoặc đã bị
kết án nhưng chưa được xoá án tích về tội cố ý
hoặc gây hậu quả nghiêm trọng thì có thể vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 của điều luật.13
Trong khi chưa có hướng dẫn chính thức về Điều 232 Bộ luật hình
sự năm 1999 thì theo chúng tôi hướng dẫn tại
Thông tư
liên ngành số
01/TTLN ngày 7-1-1995 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) vẫn còn phù hợp, cac cơ quan tiến hành tố tụng nên vận dụng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội, nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng hình phạt dưới một năm tù; nếu có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến năm năm tù.
13 Xem các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng năm 1995. tr 94
2. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 232 Bộ luật hình sự
a. Có tổ chức;
Tình tiết phạm tội này hoàn toàn tương tự với tình tiết quy định tại điểm a khoản 2 Điều 230 Bộ luật hình sự, chỉ khác nhau ở chỗ phạm tội có
tổ chức trong trường hợp này là chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng,
mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ; còn các dấu hiệu khác đều giống trường hợp quy định taịi điểm a khoản 2 Điều 230 Bộ luật hình sự và Điều 20 Bộ luật hình sự về trường hợp phạm tội có tổ chức.
b. Vật phạm pháp có số lượng lớn;
Vật phạm pháp có số lượng lớn đối với tội phạm này là vật liệu nổ mà người phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt có số lượng lớn.
Theo Thông tư
liên ngành số
01/TTLN ngày 7-1-1995 của Toà án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đã hướng dẫn áp dụng Điều 95, Điều 96 Bộ luật hình sự năm 1985, thì được coi là vật phạm pháp có số lượng lớn nếu chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt thuốc nổ các loại từ trên 15kg đến 75kg; thuốc pháo từ trên 30kg đến 150kg; thuốc phóng từ trên 10kg đến 50kg; dây cháy chậm, dây nổ từ trên 3000m đến 15000m; kíp nổ, nụ xuỳ từ trên 1000 cái đến 10.000 cái.14
c. Vận chuyển, sử dụng, mua bán qua biên giới;
Tình tiết phạm tội này cũng tương tự như tình tiết quy định tại điểm
c khoản 2 Điều 230 Bộ
luật hình sự chỉ khác nhau
ở chỗ đối tượng mà
người phạm tội vận chuyển, sử dụng, mua bán qua biên giới là vật liệu nổ chứ không phải là vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, còn các dấu hiệu khác giữa hai tình tiết đều giống nhau.
d. Gây hậu qủa nghiêm trọng;
Tình tiết này cũng tương tự như tình tiết quy định tại điểm d khoản 2 Điều 230 Bộ luật hình sự chỉ khác ở chỗ hậu quả nghiêm trọng ở tình tiết
14 Xem các văn bản về hình sự, dân sự, kinh tế và tố tụng năm 1995. tr.94
này là do hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ gây ra chứ không phải là do hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự gây ra.
Trong khi chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt vật liệu nổ
gây ra có thể
vận dụng Thông tư
liên tịch số
02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001
của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ gây ra.
đ. Tái phạm nguy hiểm.
Là trường hợp người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 hoặc khoản 4 của điều luật hoặc đã tái phạm chưa được xoá án tích mà lại phạm tội này không phân biệt thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của điều luật.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật thì
người phạm tội bị nghiêm trọng.
phạt tù từ
ba năm đến mười năm, là tội phạm rất
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 232 Bộ luật hình sự, nếu người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự phạt dưới ba năm tù nhưng không được dưới một năm tù. Nếu thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật và có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình
sự, không có tình tiết giảm nhẹ
hoặc nếu có nhưng mức độ
giảm nhẹ
không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười năm tù.
3. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 232 Bộ luật hình sự
a. Vật phạm pháp có số lượng rất lớn.
Tình tiết này cũng tương tự như trường hợp phạm tội quy định tại điểm a khoản 3 Điều 230 Bộ luật hình sự nên có thể vận dụng Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 7-1-1995 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đã hướng dẫn áp dụng Điều 95, Điều 96 Bộ luật hình sự năm 1985 để xác định vật phạm pháp có số lượng rất lớn đối với hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, cụ thể là: được coi là vật phạm pháp có số lượng rất lớn nếu trên mức tối đa được hướng dẫn
tại điểm b khoản 2 của điều luật. Ví dụ: trên 75kg thuốc nổ các loại; trên
150kg thuốc pháo; trên 50kg thuốc phóng; trên 15.000m dây cháy chậm, dây nổ; trên 10.000 cái kíp nổ, nụ xuỳ.
b. Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
Cũng như trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự gây ra quy định tại điểm b khoản 3 Điều 230 Bộ luật hình sự nên có thể vận dụng Thông tư liên tịch
số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm
2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV"Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 đối với trường hợp
gây hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi hành vi chế tạo, tàng trữ, vận
chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ gây ra.
Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 232 Bộ luật hình sự, người phạm tội có thể bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.
Khi quy định hình phạt đối với người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật cần chú ý:
Nếu chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 của điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc tuy có nhưng mức độ tăng nặng
không đáng kể thì có thể được áp dụng hình phạt dưới bảy năm tù nhưng không được dưới ba năm.
Nếu thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 của điều hoặc tuy chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 nhưng tập trung nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 của điều luật và người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến mười lăm năm tù.
4. Phạm tội thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 230 Bộ luật hình sự
Cũng tương tự như khoản 4 Điều 230 Bộ luật hình sự, do Điều 96 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ cấu tạo 3 khoản, trong đó các tình tiết là yếu tố định khung hình phạt của khoản 3 Điều 96 được quy định lại tại khoản 4 Điều 232 Bộ luật hình sự năm 1999 nên các tình tiết quy định tại khoản 3
Điều 232 được coi là mới. Do đó nên
vận dụng Thông tư
liên ngành số
01/TTLN ngày 7-1-1995 hướng dẫn trường hợp phạm tội quy định tại khoản 3 Điều 96 Bộ luật hình sự năm 1985 để xác định trường hợp quy
định tại khoản 3 Điều 232 Bộ
luật hình sự
năm 1999 thì việc xác định
trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 232 Bộ luật hình sự năm 1999.
a. Vật phạm pháp có số đặc biệt rất lớn.
Do chưa có hướng dẫn chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ bao nhiêu là đặc biệt lớn và nếu
vận dụng Thông tư
liên ngành số
01/TTLN ngày 7-1-1995 hướng dẫn
trường hợp phạm tội quy định tại khoản 3 Điều 96 Bộ luật hình sự năm 1985 để xác định trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 232 Bộ luật hình sự năm 1999 thì được coi là vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn nếu chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
vật liệu nổ
gấp ba lần mức quy định tại khoản 3 điều luật. Ví dụ:
trên
225kg thuốc nổ các loại; trên 450kg thuốc pháo; trên 150kg thuốc phóng;
trên 45.000m dây cháy chậm, dây nổ; trên 30.000 cái kíp nổ, nụ xuỳ.
b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Cũng như đối với trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng, trong
khi chưa có hướng thì có thể
vận dụng Thông tư
liên tịch số