Những Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Hình Sự Và Nâng Cao Hiệu Quả Áp Dụng Biện Pháp Tịch Thu

hình tội phạm không giảm, án hình sự, hành chính, án dân sự, hôn nhân gia đình, án kinh doanh thương mại tăng cao và ngày càng phức tạp thì số lượng cán bộ tư pháp không đủ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, dẫn đến tình trạng quá tải, án tồn đọng, án quá hạn, án hủy tăng cao. Chế độ chính sách đối với cán bộ tư pháp chưa thực sự tương xứng với tính chất công việc, chưa thu hút được nguồn cán bộ có trình độ, năng lực vào công tác trong ngành. Điều kiện, phương tiện làm việc còn quá thiếu thốn, chưa đáp ứng được yêu cầu công tác trong hiện nay.

Một số quy định của pháp luật chưa thực sự phù hợp, chậm được sửa đổi, bổ sung hoặc hướng dẫn kịp thời. Nhiều quy định về công tác tổ chức cán bộ còn chưa đầy đủ, chưa được điều chỉnh, bổ sung gây khó khăn cho Tòa án trong việc triển khai công tác quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ Thẩm phán.

- Về nguyên nhân chủ quan:


Lãnh đạo một số đơn vị chưa phát huy đầy đủ tinh thần trách nhiệm, năng lực quản lý còn hạn chế; thiếu kiểm tra đôn đốc thường xuyên; khen thưởng, kỷ luật chưa nghiêm, chưa kịp thời nên không có tác dụng động viên cán bộ trong đơn vị thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ. Một số đơn vị có những vấn đề mất đoàn kết nội bộ, đơn thư kéo dài nhưng lãnh đạo đơn vị không giải quyết kịp thời, triệt để nên cũng ảnh hưởng đến nhiệm vụ chuyên môn và uy tín của đơn vị.

Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, công tác đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả công tác chưa cao.

Phương pháp, lề lối làm việc và thủ tục hành chính tư pháp chậm được đổi mới, cải tiến. Việc áp dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động của cơ quan tư pháp chưa được quan tâm đúng mức cũng làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác.

Cùng với việc kết án và quyết định hình phạt đối với người phạm tội, Tòa án phải xử lý vật chứng, tài sản, tiền bạc liên quan đến tội phạm. Tuy không phải là hình phạt, nhưng việc xử lý này rất quan trọng, nó liên quan trực tiếp đến quyền lợi của những người tham gia tố tụng. Thực tiễn xét xử nhiều vụ án, việc xác định tội danh và quyết định hình phạt đối với người phạm tội rất đúng pháp luật, nhưng chỉ vì áp dụng biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm không đúng nên bản án bị sửa, bị hủy để xét xử lại. Có thể thấy ngoài những nguyên nhân cơ bản đã nên trên còn có những nguyên nhân đặc thù của những tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm đã nêu trên như sau:

- Có nhiều vụ án trong quá trình xét xử không kê biên tài sản, nên đương sự đã tẩu tán hoặc chuyển dịch quyền sở hữu, do đó cơ quan Thi hành án gặp khó khăn trong việc áp dụng biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm.

- Pháp luật hiện hành chưa có những quy định thống nhất, đồng bộ như quy định về cơ chế kiểm tra, giám sát, quản lý nguồn thu nhập, tài sản của người phải thi hành án thông qua việc đăng ký, kê khai tài sản nên khi cơ quan Thi hành án thực hiện tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác minh, phát hiện và kê biên tài sản của người phải thi hành án.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

- Mô hình tổ chức, cơ chế thi hành án hiện đang bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập. Công tác quản lý thi hành án hiện nay đang ở trong tình trạng tản mạn, thiếu tập trung thống nhất do có nhiều cơ quan khác nhau quản lý, tổ chức thực hiện (Bộ Công an quản lý việc thi hành án phạt tù, tử hình và trục xuất; Bộ Quốc phòng quản lý và tổ chức thi hành các bản án, quyết định của tòa án quân sự, kể cả hình sự và dân sự; Bộ Tư pháp quản lý và tổ chức thi hành án dân sự; UBND tổ chức, quản lý đương sự về cải tạo không giam giữ, án treo…) nên dẫn đến nhiều khó khăn trong việc tổng kết, đánh giá, nắm tình hình, chỉ đạo, hướng dẫn thi hành án. Ngoài ra, giữa việc thi hành án dân sự và thi hành án hình sự thiếu sự gắn kết, phối hợp chặt chẽ nên công tác thi hành án dân sự gặp nhiều vướng mắc trong những trường hợp cùng một bản án hình sự có nhiều cơ quan chịu trách nhiệm ra quyết định và tổ chức thi hành (cơ quan Thi hành án hình sự chịu trách nhiệm thi hành hình phạt, cơ quan thi hành án dân sự chịu trách nhiệm thi hành phần án phí, tiền phạt và phần dân sự). Sự chưa gắn kết đó cản trở cho cơ quan Thi hành án dân sự trong việc xác minh điều kiện thi hành án của người bị kết án, thực hiện các thủ tục thông báo về thi hành án liên quan đến phần nghĩa vụ dân sự. Mặt khác do sự đan xen, chồng chéo giữa thi hành án dân sự và thi hành án hình sự như hiện nay, nên trách nhiệm của từng cơ quan chưa được phân định rõ ràng, tạo sự lệ thuộc của cơ quan Thi hành án dân sự khi phải báo cáo, đề nghị các cơ quan liên quan cho ý kiến chỉ đạo, hỗ trợ trong khi pháp luật chưa có những quy định tạo sự độc lập cũng như giành những quyền hạn cần thiết cho việc đảm bảo thi hành án của Chấp hành viên như

chưa có quy định về quyền của chấp hành viên được khám xét người đương sự, nơi ở của đương sự và những người liên quan khi biết rõ họ đang có tài sản hoặc cất giấu, tẩu tán tài sản.

Biện pháp tư pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm trong luật hình sự Việt Nam - 12

- Thực tế cho thấy, hiệu quả thực thi biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm phụ thuộc nhiều vào sự ủng hộ, phối hợp của các cơ quan và chính quyền cơ sở. Tuy nhiên, một số cơ quan, tổ chức không thực hiện đúng nghĩa vụ, trách nhiệm trong việc tạo điều kiện, hỗ trợ, phối hợp, tạo điều kiện cho cơ quan Thi hành án xác minh điều kiện thi hành án, cưỡng chế, kê biên, định giá tài sản. Trong khi đó, pháp luật lại cũng chưa có những quy định cụ thể, ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân liên quan trong trường hợp không thực hiện đúng và kịp thời những yêu cầu của chấp hành viên và cơ quan Thi hành án.

Chỉ khi khắc phục được những nguyên nhân nói trên thì việc áp dụng pháp luật hình sự nói chung, việc áp dụng biện pháp tư pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm mới đạt được hiệu quả trong thực tiễn. Các giải pháp để khắc phục những nguyên nhân trên tác giả luận văn xin được kiến giải ở nội dung của chương sau (chương 3).


Chương 3 NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TỊCH THU VẬT, TIỀN TRỰC TIẾP LIÊN QUAN ĐẾN TỘI PHẠM TRONG THỰC TIỄN‌


3.1. NHU CẦU HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TỊCH THU VẬT, TIỀN TRỰC TIẾP LIÊN QUAN ĐẾN TỘI PHẠM TRONG THỰC TIỄN

Trong giai đoạn hiện nay, BLHS năm 1999 hiện hành (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009) là công cụ pháp luật sắc bén, hữu hiệu của nhà nước và của nhân dân để đảm bảo pháp chế, củng cố và duy trì trật tự pháp luật, góp phần quan trọng trong công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như bảo vệ một cách hữu hiệu lợi ích của Nhà nước, của xã hội và của công dân. Do đó, trong tình hình mới, nhất là khi tội phạm ngày càng gia tăng thì việc tiếp tục sửa đổi, bổ sung những quy định cũ, xây dựng những quy định mới nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam là một đòi hỏi có tính cấp bách để kịp thời phục vụ thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội phạm. Tuy nhiên, việc đổi mới và hoàn thiện này phải dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn và

phải là cơ sở pháp lý vững chắc, thể hiện được các tư tưởng pháp chế, nhân đạo, dân chủ, cũng như phù hợp với pháp luật hình sự các nước trên thế giới trong xu thế hội nhập khu vực và quốc tế. Có thể nói, việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự để nâng cao hiệu quả hoạt động thực tiễn là một yêu cầu cần thiết. Điều này hoàn toàn phù hợp với nội dung của Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày 24/05/2005 của Bộ Chính trị “ Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”. Bàn riêng về biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm, sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về biện pháp này được thể hiện cụ thể như sau:

Về thực tiễn, sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật, trong đó có biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm. Việc làm này mang tính tất yếu và cũng là để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm cần phải được hoàn thiện để có thể theo kịp và phản ánh phù hợp với những biến đổi của tình hình kinh tế - xã hội khách quan, quy định những đặc điểm cơ bản của tình hình tội phạm trong giai đoạn phát triển cụ thể của đời sống xã hội. Đồng thời, những tác động tích cực và tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đã và đang đặt ra cho Việt Nam những cơ hội và thách thức lớn, trong đó có cả sự tác động đối với hệ thống pháp luật phòng chống tội phạm nói chung và các quy định về biện pháp tịch thu

vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm nói riêng. Vì vậy, để đáp úng được yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, góp phần bảo đảm sự hợp lý giữa các quy định của pháp luật hình sự với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc đã ký kết và phê chuẩn, pháp luật hình sự của chúng ta phải có tính thống nhất, ổn định, phù hợp với các chuẩn mực chung của pháp luật quốc tế. Và điều này chỉ có được khi Việt Nam thực hiện những công việc cần thiết để hoàn thiện hệ thống các biện pháp cưỡng chế hình sự, trong đó có biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm.

Bên cạnh đó, để đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thì nhiệm vụ cấp bách hàng đầu là phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Những yêu cầu về việc hoàn thiện các quy định về biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm nhằm đáp ứng những đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền và công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam là:

- Phải được đặt trong tổng thể chiến lược kinh tế - xã hội, công cuộc cải cách tư pháp, cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Phải được xây dựng trên nền tảng của các nguyên tắc pháp lý tiến bộ của nhân loại, như nguyên tắc bình đẳng, công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế.

- Phải đề cao vai trò của pháp luật, tuân thủ pháp luật trong đời sống xã hội.

- Phải đảm bảo chủ quyền của nhân dân, phải tuân thủ nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do và dân chủ của

con người.

Về lý luận, nhu cầu hoàn thiện biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm bắt nguồn từ chính những tồn tại, hạn chế, khiếm khuyết nhất định của các quy định về biện pháp này trong pháp luật hình sự Việt Nam.

Trước 01/ 07/ 2000, tức trước thời điểm BLHS năm 1999 có hiệu lực, biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm được quy định tại điều 33 – BLHS năm 1985. Sau khi BLHS năm 1985 có hiệu lực thi hành và trong một thời gian dài gặp khó khăn trong việc áp dụng biện pháp tư pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm do sự thiếu thống nhất trong quan điểm lý luận thì mới có công văn số 24/1999/KHXX ngày 17 tháng 03 năm 1999 của Tòa án nhân dân tối cao về việc giải đáp bổ sung một số vấn đề áp dụng pháp luật hướng dẫn áp dụng biện pháp này. Tuy nhiên phạm vi hướng dẫn cũng chỉ là trong một trường hợp cụ thể, đó là trường hợp người chiếm đoạt tài sản là tiền rồi dùng tiền đó mua vé xổ số và trúng thưởng.

Từ 01/07/2000 đến nay, biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm được quy định tại điều 41 – BLHS năm 1999. Điều 41 – BLHS năm 1999 đã mở rộng phạm vi chủ thể áp dụng biện pháp tư pháp này. Ngoài việc mở rộng phạm vi chủ thể có thẩm quyền áp dụng thì các nội dung còn lại về biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm vẫn theo tinh thần của BLHS năm 1985. Và vì vẫn theo tinh thần của BLHS năm 1985 nên đến nay việc áp dụng biện pháp tư pháp này vẫn gây nhiều khó khăn cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đặc biệt, trong khi điều 33 – BLHS năm 1985 còn có

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 01/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí