Biện pháp tư pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm trong luật hình sự Việt Nam - 14

phạm tội mà có

Việc hợp tác quốc tế về thu hồi tài sản do phạm tội mà có là đòi hỏi khách quan đối với mọi quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế với quan hệ đầu tư, thương mại và thanh toán toàn cầu hết sức phong phú, đa dạng, phức tạp. Trong bối cảnh đó, Chính phủ mỗi quốc gia phải bằng các công cụ vĩ mô và thông qua hành động của các cơ quan chức năng để tiến hành các biện pháp phù hợp, đồng thời phối hợp với các quốc gia khác, bảo vệ an toàn tài sản và hoạt động của các thành phần kinh tế và của công dân, dù tài sản đó đang ở trên lãnh thổ quốc gia nào, nhằm xác lập sự tin tưởng chính trị của công chức, doanh nghiệp, của công dân và của đối tác vào quan điểm và khả năng quản lý của chính quyền, đặc biệt trong những trường hợp phát sinh hiện tượng rửa tiền của các quan chức chính trị cấp cao, các tập đoàn kinh tế lớn. Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO với chính sách và pháp luật về đầu tư rộng mở, nên không thể đứng ngoài quy luật tất yếu này.

Việc thu hồi tài sản do phạm tội mà có để hoàn trả cho chủ sở hữu hợp pháp là hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc pháp luật Việt Nam, phù hợp với chính sách của Nhà nước và đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Việt Nam đã xác lập trên thực tế các điều kiện nhất định để phòng ngừa, phát hiện và thu hồi tài sản phạm tội nói chung thông qua các văn bản pháp luật như Luật Ngân hàng nhà nước năm 1997; Luật các tổ chức tín dụng năm 1997; Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000, Nghị định 74/2005/NĐ- CP ngày 7/6/2005 của Chính phủ về phòng chống rửa tiền; Nghị định 37/2007/NĐ-CP ngày 9/3/2007 của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập; Nghị định số 63/1998/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý ngoại hối. Vấn đề hợp

tác quốc tế trong thu hồi tài sản có yếu tố nước ngoài đã được quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 và thể hiện tại Hiệp định Tương trợ tư pháp về hình sự với các nước ASEAN (2004) và các Hiệp định Tương trợ tư pháp về hình sự và dẫn độ với Hàn Quốc (2003). Tuy nhiên pháp luật Việt Nam còn có nhiều bất cập, khó khăn khi thực hiện việc thu hồi tài sản phạm tội có yếu tố nước ngoài. Vì vậy, chúng tôi xin đề xuất khái quát về việc thực hiện chế định thu hồi tài sản do phạm tội mà có:

- Đề xuất chung:

Chính phủ có hướng dẫn áp dụng chế định này trên cơ sở nguyên tắc và quy định của pháp luật Việt Nam; chú trọng việc đàm phán, ký kết và ưu tiên áp dụng các hiệp định, thoả thuận mà Việt Nam đã ký kết có nội dung thu hồi tài sản do phạm tội mà có và theo nguyên tắc có đi có lại. Trước mắt, cần có sự đầu tư phù hợp về cán bộ, về đào tạo, về cơ sở vật chất, kỹ thuật cho các lực lượng trực tiếp thực thi, đồng thời quan tâm nghiên cứu khả năng thành lập cơ quan chuyên trách về thu hồi tài sản trong tương lai.

- Đề xuất nội luật hoá:

+ Bổ sung chế định thu hồi tài sản vào Luật Tương trợ tư pháp hiện hành.

+ Nghiên cứu, bổ sung vào Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành quy định chấp nhận thi hành phần dân sự trong phán quyết hình sự của Toà án hình sự các nước.

+ Xây dựng Luật Chống rửa tiền thay thế Nghị định số 74/2005 ngày 7/6/2005 về phòng, chống rửa tiền.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

+ Tiếp tục ký kết hoặc bổ sung, sửa đổi các hiệp định tương trợ tư pháp song phương, đa phương có nội dung về thu hồi

tài sản do phạm tội mà có.

Biện pháp tư pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm trong luật hình sự Việt Nam - 14

+ Nghiên cứu khả năng xây dựng Luật về Thu hồi tài sản của Việt Nam.

3.3.4. Xây dựng hệ thống quản lý kinh tế - tài chính của nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân

Với xu thế toàn cầu hoá kinh tế kết hợp với tự do hoá và mở cửa thị trường tài chính quốc gia, các nước đã giảm bớt rào cản hoặc nới lỏng các biện pháp kiểm soát dòng vốn vào. Quá trình này một mặt có tác dụng tích cực trong việc tạo môi trường trao đổi vốn quốc tế thông thoáng hơn, nhưng cũng gây ra không ít lo ngại. Nhất là ở Việt Nam, khi hoạt động quản lý nhà nước đối với thu nhập cá nhân ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, yếu kém thì việc xây dựng một hệ thống quản lý kinh tế - tài chính của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân là vô cùng cần thiết. Kết quả hoạt động của hệ thống này chính là cơ sở để đảm bảo cho việc quyết định áp dụng và thi hành biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm được khách quan, toàn diện và triệt để.

Hệ thống quản lý kinh tế - tài chính của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và cá nhân gồm có 8 bộ phận:

* Bộ phận 1: Trung tâm phân tích và dự báo giao dịch tài chính thuộc Bộ Tài chính:

- Nhận báo cáo về các giao dịch tài chính của các tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ tài chính, tiền tệ và các sòng bạc, các tổ chức kinh doanh xổ số.

- Tổ chức phân tích, xử lý các báo cáo giao dịch đáng ngờ; hợp tác, hỗ trợ các cơ quan trong nước, hợp tác trao đổi thông tin

với các đơn vị tình báo tài chính nước ngoài.

- Là đơn vị tình báo tài chính, cung cấp thông tin tình báo (thông tin đã được phân tích) cho các cơ quan chức năng thi hành pháp luật và cơ quan thuế.

* Bộ phận 2: Cơ quan dịch vụ Hải quan:

Hải quan Việt Nam cần có một bộ phận tình báo tài chính, chuyên phân tích các thông tin tài chính, kết hợp và làm việc chặt chẽ với Trung tâm phân tích và dự báo giao dịch tài chính. Cán bộ của Cơ quan dịch vụ hải quan được cấp mã số truy cập vào hệ thống thông tin của Trung tâm phân tích và dự báo giao dịch tài chính để khai thác các dữ liệu về các giao dịch tài chính liên quan.

* Bộ phận 3: Bộ Tư pháp:

Bộ Tư pháp là cơ quan có trách nhiệm nghiên cứu, soạn thảo, đệ trình các chính sách pháp luật liên quan đến tội phạm và xử lý tội phạm, có trách nhiệm dự thảo Luật về báo cáo các giao dịch tài chính.

* Bộ phận 4: Viện kiểm sát nhân dân tối cao:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định Luật tổ chức viện kiểm sát nhân nhân. tham gia ý kiến ngay ở giai đoạn đầu để cho ý kiến về mức độ hoàn chỉnh của hồ sơ, đảm bảo tính hiệu quả và tính kịp thời trong xử lý vụ việc.

* Bộ phận 5: Uỷ ban phòng chống tội phạm:

- Thu thập và phân tích thông tin tình báo tội phạm; xây dựng mạng lưới tình báo tội phạm quốc gia, phối hợp với các cơ quan điều tra và tình báo khác thực hiện điều tra tình báo những

hoạt động phạm tội nguy hiểm.

- Đưa ra những cảnh báo, xu hướng tội phạm chung cho các cơ quan điều tra, đồng thời lập nên những mạng lưới thông tin tội phạm cho các cơ quan điều tra.

* Bộ phận 6: Tổng Cục cảnh sát thuộc Bộ Công an Việt

Nam:

Tổng cục cảnh sát phải thường xuyên thu thập và đưa vào

cơ sở dữ liệu riêng các thông tin về: đối tác kinh doanh, đăng ký tài sản, đăng ký xe, mã số công ty, mã số nộp thuế, các thông tin từ cơ quan thuế, Hải quan, thương mại.

Để thực hiện chức năng điều tra các vụ án,cảnh sát được quyền sử dụng các công cụ thu thập tin, từ việc yêu cầu cung cấp thông tin, đưa ra lệnh khám trụ sở, khám nhà, tới lệnh tạm giữ tài sản và người.

Cơ sở dữ liệu của Trung tâm phân tích và dự báo giao dịch tài chính được đánh giá là vô cùng hữu ích cho công tác điều tra tội phạm của tổng cục cảnh sát.

* Bộ phận 7: Uỷ ban đầu tư và chứng khoán:

Ủy ban đầu tư và chứng khoán phải có một bộ phận chuyên điều tra tài chính, giúp các văn phòng luật sư và các cơ quan thi hành pháp luật điều tra các vụ án liên quan đến đầu tư trên thị trường vốn của Việt Nam, kiểm soát các hoạt động đầu tư của các đối tượng tham gia trên thị trường vốn Việt Nam.

* Bộ phận 8: Ngân hàng nhà nước Việt Nam:

- Phổ biến các chính sách và các biện pháp quản lý, kiểm soát giao dịch tài chính đến những doanh nghiệp, công ty, cá nhân là khách hàng của ngân hang nhà nước Việt Nam.

- Xây dựng cơ sở dữ liệu đánh giá về những sản phẩm, dịch vụ đã và đang cung cấp cho khách hàng của mình, đồng thời có hệ thống kiểm soát, xác định và xử lý rủi ro rửa tiền khi chúng được phát hiện.

- Dự đoán đánh giá tác động của những thay đổi về chính trị, kinh tế trên thế giới đối với mức độ rủi ro rửa tiền và tài trợ cho khủng bố trong hệ thống của mình, đồng thời cũng có hệ thống đánh giá rủi ro đối với các sản phẩm, dịch vụ mới hoặc sẽ đưa ra trong tương lai.

- Phân loại khách hàng theo các loại có rủi ro thấp, bình thường và cao. Tương ứng với sự phân loại này là những quy trình, thủ tục về nhận biết khách hàng, theo dõi khách hàng, kiểm soát giao dịch trên tài khoản của khách hàng và tuyên truyền để khách hàng tham gia vào việc phòng chống rửa tiền cùng ngân hàng.

- Nâng cao nhận thức cho chính nhân viên của mình, có đánh giá về trình độ, sắp xếp nhân viên phù hợp, đảm bảo tính hiệu quả công việc cao và quản trị rủi ro tốt.


KẾT LUẬN


Trong quá trình triển khai đề tài, tác giả đã có gắng giải

quyết một cách có hệ thống những vấn đề cơ bản của biện pháp tư pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm, từ đó giải quyết mối quan hệ giữa biện pháp tư pháp này với hình phạt bổ sung tịch thu tài sản để làm sáng tỏ những vấn đề còn chưa thống nhất về mặt lý luận, khoa học. Nhận thức đúng về mối quan hệ của hai biện pháp cưỡng chế hình sự này có ý nghĩa quan trọng trong việc sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hình sự cũng như việc áp dụng chúng trong thực tiễn.

LHS các nước trên thế giới đều có quy định biện pháp cưỡng chế có tính chất tương tự như biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm nhưng chúng mang mức độ nghiêm khắc hơn vì chúng được coi là hình phạt. Việc nghiên cứu, so sánh pháp luật hình sự Việt Nam với pháp luật hình sự các nước trên thế giới sẽ là cơ sở để chúng ta hoàn thiện pháp luật nước ta. Tuy nhiên, việc học hỏi pháp luật nước ngoài phải trên nguyên tắc kế thừa, phát huy và có chọn lọc để phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước.

Qua phân tích một số bản án thực tế có thể thấy một thực trạng là việc áp dụng biện pháp tư pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm còn chưa đúng với quy định của pháp luật, do đó vừa không phát huy được ý nghĩa, mục đích của các chính sách hình sự mặt khác làm giảm hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta trong thời gian qua. Để tạo điều kiện cho các cơ quan tư pháp hình sự thực hiện tốt chức năng của mình, theo chúng tôi, các nhà làm luật nước ta cần kịp thời sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật có liên quan đến biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm trong

bộ luật hình sự, cũng như ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật một số nội dung còn chưa rõ ràng, đầy đủ, qua đó, tạo sự thống nhất, đồng bộ trong việc thực hiện bộ luật hình sự và các giải pháp khác bên cạnh giải pháp sửa đổi, bổ sung BLHS.

Trong bản luận văn này, tác giả đã đưa ra một số nguyên nhân của những tồn tại trong thực tiễn áp dụng pháp luật nước ta; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tư pháp này trong thời gian tới. Tuy nhiên, đây là một vấn đề khá mới và phức tạp nên một số nội dung liên quan không tránh khỏi những quan điểm khác nhau. Tác giả hy vọng sẽ nhận được nhiều ý kiến đóng góp, chia sẻ để luận văn được hoàn thiện hơn.

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 01/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí