Khái Niệm Quyền Con Người Và Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Tố Tụng Hình Sự Đối Với Người Bị Tạm Giữ, Tạm Giam

Quyền con người là những quyền vốn có tự nhiên mà chỉ con người mới được hưởng trong những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định và được pháp luật đảm bảo. Quyền con người vừa mang tính tự nhiên vừa mang tính xã hội; mang tính phố biến nhưng lại mang tính đặc thù; mang tính giai cấp, đồng thời mang tính nhân loại.

1.2. KHÁI NIỆM QUYỀN CON NGƯỜI VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM

1.2.1. Khái niệm người bị tạm giữ, tạm giam và quyền con người

trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm giữ, tạm giam

1.2.1.1. Khái niệm người bị tạm giữ, tạm giam

* Khái niệm người bị tạm giữ

Trong TTHS Việt Nam, người bị tạm giữ là người tham gia tố tụng có quyền và nghĩa vụ pháp lý liên quan đến vụ án. BLTTHS 2003 đưa ra khái niệm về người bị tạm giữ như sau: "Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ" [42]. Người bị tạm giữ có thể là người chưa bị khởi tố về hình sự, đó là những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, trường hợp phạm tội tự thú trước khi hành vi phạm tội bị phát hiện và khởi tố, và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Mặc dù, họ chưa bị khởi tố về hình sự nhưng trên thực tế họ vẫn phải chịu sự cưỡng chế của cơ quan đã tạm giữ họ. Họ bị hạn chế một số quyền tự do, bị buộc phải khai báo hoặc trả lời các câu hỏi của cán bộ điều tra.

Người bị tạm giữ cũng có thể là người đã bị khởi tố về hình sự bao gồm: bị can, bị cáo, người đã bị kết án nhưng bỏ trốn, người đang chấp hành án bỏ trốn nhưng bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội ra đầu thú và đã có quyết định tạm giữ đối với họ. Do đó, pháp luật coi người bị tạm giữ là người tham gia TTHS, có các quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ theo quy định của pháp luật.

Có thể đưa ra khái niệm khoa học về người bị tạm giữ như sau: Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ của người có thẩm quyền tố tụng; có quyền và nghĩa vụ nhất định theo quy định của pháp luật.

* Khái niệm người bị tạm giam

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

Tạm giam là một trọng các biện pháp ngăn chặn của TTHS áp dụng đối với bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội đưa ra định nghĩa về biện pháp tạm giam như sau:

Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong TTHS do cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội trong trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt trên hai năm tù và có những căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội [9, tr. 216].

Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm giữ, tạm giam cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội - 3

Theo định nghĩa trên thì biện pháp tạm giam có mục đích ngăn chặn tội phạm và tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng. BLTTHS quy định căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng biện pháp ngăn chặn này. Tạm giam là một biện pháp ngăn chặn có tính chất cưỡng chế cao, thể hiện: Thứ nhất, tạm giam là sự cưỡng chế của Nhà nước, tước quyền tự do thân thể của bị can, bị cáo nhằm ngăn chặn việc người đó trốn, cản trở điều tra truy tố xét xử hoặc tiếp tục phạm tội mới cũng như nhằm đảm bảo thi hành án; thứ hai, tạm giam được thực hiện bởi sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước bắt buộc người bị áp dụng phải chấp hành. Nhà nước ban hành các quy định về tạm giam và đảm bảo cho các quy phạm đó được thực hiện; thứ ba, tạm giam chỉ được áp dụng với bị can, bị cáo trong các trường hợp nhất định; thứ tư, tạm giam hạn chế một số quyền của công dân đối với người bị áp dụng như: quyền bất

khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do đi lại, quyền bầu cử, ứng cử… Như vậy, có thể thấy rằng tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất so với các biện pháp ngăn chặn khác. Nhưng tạm giam khác với hình phạt. Hình phạt do Tòa án quyết định áp dụng đối với người phạm tội được tuyên trong bản án, đây là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất nhằm tước bỏ, hạn chế quyền của người phạm tội, trừng trị giáo dục họ góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ chế độ trật tự xã hội cũng như các quyền lợi hợp pháp của công dân. Người phải chịu hình phạt là người có tội, hậu quả của việc áp dụng hình phạt là người phạm tội phải mang án tích. Dù có cùng tính chất như tạm giữ nhưng tạm giam nghiêm khắc hơn. Đối tượng bị áp dụng biện pháp này chỉ có thể là bị can bị cáo, thời hạn tạm giam tương đối dài có thể vài tháng thậm chí hàng năm. Tạm giữ chỉ có thể được áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang với thời gian ngắn, tối đa không quá 9 ngày.

Theo quy định của Khoản 1, Điều 88 BLTTHS 2003 thì tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong trường hợp sau đây:

- Bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng.

- Bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng mà Bộ luật quy định hình phạt đối với tội đó là trên 2 năm tù và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội [42, Điều 88, Khoản 1].

Như vậy, người có thể bị tạm giam phải là bị can, bị cáo (người đã bị khởi tố hình sự, người bị truy tố, người bị quyết định đưa ra xét xử tại tòa án). Những người chưa bị khởi tố hình sự thì không được áp dụng biện pháp ngăn chặn này đối với họ. Ngoài ra, theo quy định của BLTTHS biện pháp ngăn chặn tạm giam còn có thể được áp dụng đối với người bị bắt khi đang bị truy nã, đây có thể là bị can, bị cáo cũng có thể là người đang chấp hành hình phạt nhưng bỏ trốn, lúc này tạm giam sẽ được áp dụng khi CQĐT nhận được người bị truy nã cho đến khi cơ quan ra lệnh truy nã đến nhận.

Biện pháp ngăn chặn tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo, nhưng không phải bị can, bị cáo nào cũng bị áp dụng biện pháp pháp ngăn chặn này mà chỉ khi họ phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc các tội phạm khác mà luật hình sự quy định trên 2 năm tù và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội.

Đối với một số trường hợp đặc biệt, tuy bị can, bị cáo có đủ căn cứ nêu trên trên nhưng không áp dụng tạm giam đối với họ do pháp luật TTHS thể hiện tính nhân đạo. Theo quy định của BLTTHS 2003 thì các đối tượng đó là: phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người già yếu (người già yếu là người trên 70 tuổi hoặc trên 60 tuổi và thường xuyên ốm đau), người bị bệnh nặng (người bị bệnh nặng là người đang mắc bệnh hiểm nghèo làm cho người đó bị suy kiệt nặng mà không được cứu chữa kịp thời thì sẽ có thể nguy hiểm tới tính mạng), những người này phải có nơi cư trú rò ràng. Chỉ tạm giam những người này trong trường hợp đặc biệt như họ phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia họ là đối tượng lưu manh côn đồ và trong các vụ án phức tạp nếu để họ tại ngoại thì không thể điều tra truy tố, xét xử được [42, Điều 88, Khoản 2].

Đối với bị can bị cáo là người chưa thành niên thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, họ chỉ có thể bị tạm giam khi họ phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chỉ có thể bị tạm giam khi họ phạm tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng [42, Điều 273, Khoản 2]. Vấn đề đặt ra đối với việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với các trường hợp đặc biệt này là phải kiểm tra kỹ sức khỏe, xác định đúng tuổi chịu trách nhiệm của họ.

Bị can, bị cáo bị tạm giam có các quyền và nghĩa vụ tố tụng do BLTTHS quy định nhằm bảo đảm để họ chấp hành nghiêm chỉnh quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án, đồng thời để họ thực hiện các quyền khi bảo vệ các lợi hợp pháp của mình trước các cơ quan tiến hành tố tụng.

Bộ luật tố tụng hình sự quy định biện pháp ngăn chặn tạm giam và những bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp này được gọi là "người bị tạm giam" chứ không phải là "người bị giam", do biện pháp này được áp dụng khi bị can, bị cáo chưa phải là người phạm tội theo quy định của pháp luật. Nếu ở giai đoạn xét xử tòa tuyên bị cáo không phạm tội thì họ được coi là người bị oan và được bồi thường thiệt hại về những hậu quả do bị áp dụng biện pháp tạm giam. Trong trường hợp bị can, bị cáo bị tòa án kết án thì số ngày bị tạm giam được khấu trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt với nguyên tắc 1 ngày bị tạm giam bằng 1 ngày tù và 3 ngày đối với hình phạt cải tạo không giam giữ [42, Điều 33].

Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về người bị tạm giam trong TTHS như sau: Người bị tạm giam là bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm khác mà luật hình sự quy định hình phạt trên hai năm tù và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội bị các cơ quan tiến hành TTHS có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp tạm giam theo trình tự, thủ tục của luật TTHS; có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

1.2.1.2. Khái niệm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm giữ, tạm giam

Người bị tạm giữ, tạm giam được pháp luật quy định cho họ những quyền với mục đích bảo đảm quyền con người của họ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Quyền con người đối với người bị tạm giữ, tạm giam trong TTHS là quyền của nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội. Người bị tạm giữ, tạm giam khi tham gia vào các hoạt động TTHS, với tư cách là người bị buộc tội thì họ vẫn được pháp luật bảo vệ và tôn trọng những quyền cơ bản thiết thân của con người. Khi bình luận về quyền của nhóm người yếu thế trong đó có người bị tạm giữ, tạm giam, giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội có nhận xét:

Mặc dù họ là những đối tượng bị hoặc có khả năng bị áp dụng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất là trách nhiệm hình sự nhưng những quyền cơ bản, thiết thân nhất như: quyền được tôn trọng về nhân phẩm, quyền không bị tra tấn, đánh đập khi bị giam giữ, bị chấp hành án phạt tù… và những quyền tư pháp để được xét xử công bằng, để được điều tra khách quan trong quá trình tố tụng…vẫn phải được tôn trọng và bảo đảm [9, tr.25].

Quyền con người của người bị tạm giữ, tạm giam được ghi nhận trong các văn bản pháp luật là tiền đề để QCN được bảo đảm thực thi trong đời sống. Thông qua các quy định của Luật TTHS, Nhà nước trao cho cho người bị tạm giữ, tạm giam những phương tiện cần thiết để bảo vệ các quyền của mình và thiết lập các cơ chế để giải quyết cũng như đảm bảo các quyền của người bị tạm giữ, tạm giam. Các quyền này, khi được pháp luật TTHS quy định, tức là đã được Nhà nước chính thức thừa nhận người bị tạm giữ, tạm giam có các quyền tố tụng nhất định mà bất kỳ ai trong xã hội cũng đều phải tôn trọng. Người bị tạm giữ, tạm giam khi thực hiện quyền của mình đồng thời cũng phải có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, tôn trọng và không được vi phạm các thủ tục tố tụng.

Quyền con người đối với người bị tạm giữ, tạm giam được quy định trong pháp luật TTHS bởi một mặt pháp luật TTHS là công cụ hữu hiệu của Nhà nước trong việc thực hiện, bảo vệ QCN, quyền công dân trong các hoạt động TTHS, đồng thời nó còn chi phối hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm các QCN đối với người bị tạm giữ, tạm giam. QCN được ghi nhận trong các văn bản pháp luật của nhà nước tạo thành hệ thống các quy phạm pháp luật, một mặt phản ánh nội dung các QCN và thủ tục thực hiện các quyền đó, đồng thời cũng là cơ chế pháp lý bảo đảm QCN trong hoạt động TTHS.

Quyền con người đối với người bị tạm giữ, tạm giam trong TTHS là tập hợp các quyền thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị nhằm mục đích khẳng

định danh dự nhân phẩm của con người trong mọi hoàn cảnh, bảo vệ các cá nhân khỏi sự tùy tiện và sự lạm quyền của các cơ quan và nhân viên nhà nước trong các hoạt động TTHS. Theo các văn bản pháp lý quốc tế về quyền con người thì quyền con người của người bị tạm giữ, tạm giam về cơ bản là quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm… của cá nhân khi họ tham gia tố tụng với tư cách người bị tạm giữ, tạm giam.

Từ những phân tích trên, khái niệm QCN trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm giữ, tạm giam có thể hiểu như sau: Quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm giữ, tạm giam là tổng hợp các quyền thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị nhằm mục đích khẳng định việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tôn trọng danh dự nhân phẩm của con người trong mọi hoàn cảnh.

1.2.2. Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm giữ, tạm giam

Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự đối với người bị tạm giữ, tạm giam là đảm bảo cho những người đó có địa vị pháp lý phù hợp để bảo vệ mình trước việc bị nghi thực hiện tội phạm, bị buộc tội và những điều kiện pháp lý cũng như thực tế để họ thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng được quy định [47, tr. 44].

Người bị tạm giữ, tạm giam là người bị nghi thực hiện tội phạm. Bảo đảm QCN đối với người bị tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự từ góc độ này là xây dựng cơ sở pháp lý và tạo điều kiện trên thực tế để: 1. Những người đó có khả năng chứng minh bác bỏ sự nghi ngờ phạm tội từ phía người và cơ quan có thẩm quyền, bác bỏ sự nghi ngờ phạm tội từ phía người và cơ quan có thẩm quyền, bác bỏ sự buộc tội của cơ quan có thẩm quyền và làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với tội phạm mà người đó thực hiện; 2. Những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác định chính xác, khách quan tội phạm, người phạm tội và áp dụng đứng đắn các quy định của pháp luật (kể cả BLHS và BLTTHS) để giải quyết vụ án.

Và như vậy, trên cơ sở các QCN đối với người bị tạm giữ, tạm giam thì việc bảo đảm QCN trong tố tụng hình sự đối với họ được tập trung vào các nội dung sau:

Một là, quy định đứng đắn, hợp lý về nội dung và thực hiện các nguyên tắc tố tụng hình sự;

Hai là, quy định hợp lý địa vị tố tụng của người bị tạm giữ, tạm giam; quy định cụ thể, rò ràng quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng;

Ba là, quy định cụ thể, hợp lý điều kiện và thủ tục áp dụng các biện pháp tạm giữ, tạm giam;

Bốn là, quy định các thủ tục tố tụng hình sự cụ thể, dân chủ, công khai;

Năm là, quy định cụ thể chế độ tạm giữ, tạm giam đối với người bị tạm giữ, tạm giam …

1.3. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA LUẬT NHÂN QUYỀN QUỐC TẾ VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, TẠM GIAM

Quyền con người và bảo đảm QCN là mối quan tâm hàng đầu hiện

nay của mỗi quốc gia. Bảo đảm QCN nói chung, QCN của người bị tạm giữ, tạm giam nói riêng trong tố tụng hình sự là xu thế tất yếu trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay trên thế giới. Vấn đề bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, tạm giam được quy định trong các văn bản pháp lý quốc tế cũng như trong luật tố tụng hình sự quốc gia.

Từ góc độ các văn bản pháp luật quốc tế, QCN và bảo đảm QCN nói chung đã được quy định tương đối sớm trong các văn bản pháp lý khi Nhà nước tư sản mới hình thành. Nhưng có lẽ tập trung nhất, cụ thể nhất về bảo đảm QCN của người bị buộc tội được quy định rò ràng, cụ thể trong các văn bản như: Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, 1948 (UDHR) và Công ước quốc tế về quyền dân dự và chính trị, 1966 (ICCPR) làm nòng cốt; các văn kiện quốc tế cơ bản về QCN trong hoạt động tư pháp khác như: Công ước

Xem tất cả 136 trang.

Ngày đăng: 02/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí