dịch dân sự, kể cả QSHTT”. Như vậy tiêu chí “có thể chuyển giao được trong giao dịch dân sự” đã bị loại bỏ. Sự thay đổi này làm mở rộng khái niệm quyền tài sản, mở rộng các đối tượng được xác định là quyền tài sản.
Các quyền tài sản điển hình được pháp luật ghi nhận bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng QSHTT, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác. So với BLDS 2005, ngoài việc quy định cụ thể quyền sử dụng đất là một loại quyền tài sản, BLDS 2015 đã định nghĩa lại quyền tài sản liên quan đến QSHTT. BLDS 2015 quy định chỉ quyền tài sản đối với đối tượng QSHTT mới là quyền tài sản. Việc xác định lại quyền tài sản liên quan đến quyền sở hữ trí tuệ là đúng đắn, phù hợp với sự phân loại quyền chủ thể và các quy định pháp luật có liên quan. Vì theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ 2005, QSHTT bao gồm quyền nhân thân của tác giả và quyền tài sản của chủ sở hữu, chủ thể khác. Việc quy định quyền tài sản là QSHTT, tức là bao hàm cả quyền nhân thân là một sự thiếu sót cơ bản trong việc phân loại quyền tài sản. Quyền nhân thân và quyền tài sản là hai loại quyền tách biệt của một chủ thể với các tính chất, đặc điểm hoàn toàn khác nhau. Quyền nhân thân là quyền gắn liền với một cá nhân, gắn liền với các giá trị danh dự, nhân phẩm của cá nhân và chỉ dành riêng cho cá nhân nên không xác định giá trị thông qua tiền và không thể chuyển giao cho người khác. Quyền tài sản là quyền của một chủ thể đối với một tài sản cụ thể, gắn liền với tài sản nên có thể chuyển giao giữa các chủ thể và trị giá được bằng tiền.
Việc xác định đúng nội hàm của QSHTT bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản đối với đối tượng QSHTT, quy định quyền tài sản là quyền tài sản đối với đối tượng QSHTT đã tạo sự thống nhất cho hệ thống quy phạm pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, khái niệm về quyền tài sản là quyền tài sản đối với đối tượng QSHTT còn quá dài, không thuận tiện cho việc sử dụng nên cần phải được nghiên cứu rút gọn. Do đó, trong bài viết này, để thuận tiện cho việc sử dụng, gọi tên, người viết sử dụng tiếp tục thuật ngữ “quyền sở hữu trí tuệ” để chỉ quyền tài sản đối với đối tượng QSHTT.
Như vậy, qua các phân tích trên, thấy rằng quyền tài sản đối với QSHTT là một trong các loại tài sản theo quy định của luật dân sự.
QSHTT là một loại tài sản nên nó mang đầy đủ các đặc điểm của một loại tài sản thông thường, trở thành đối tượng của các giao dịch mua bán, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, góp vốn, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ,… Do đó có thể dùng QSHTT làm tài sản bảo đảm thực nghĩa vụ.
2.2.2.2. Tài sản bảo đảm - QSHTT, được điều chỉnh tương đối đầy đủ.
Do yêu cầu hội nhập quốc tế, Việt Nam đã xây dựng nên một khuôn khổ pháp lý cho sở hữu trí tuệ tương đối đầy đủ và ngày càng hoàn thiện hơn, để làm cơ sở cho các chủ thể thực hiện các QSHTT, trong đó có quyền sử dụng QSHTT để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ ngân hàng.
Có thể bạn quan tâm!
- Điều Kiện Để Qshtt Trở Thành Tài Sản Bảo Đảm
- Đăng Ký Giao Dịch Bảo Đảm Tiền Vay Bằng Qshtt Và Quyền Ưu Tiên
- Pháp Luật Việt Nam Về Biện Pháp Bảo Đảm Tín Dụng Bằng Quyền Sở Hữu Trí Tuệ Trong Hoạt Động Của Ngân Hàng Thương Mại
- Biện pháp bảo đảm tín dụng bằng quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động của Ngân hàng thương mại trong pháp luật Việt Nam - 7
- Khi Một Tài Sản Được Dùng Để Bảo Đảm Thực Hiện Nhiều Nghĩa Vụ Thì Thứ Tự Ưu Tiên Thanh Toán Giữa Các Bên Cùng Nhận Bảo Đảm Được Xác Định Như
- Biện pháp bảo đảm tín dụng bằng quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động của Ngân hàng thương mại trong pháp luật Việt Nam - 9
Xem toàn bộ 82 trang tài liệu này.
Cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các quyền đối với QSHTT là Luật sở hữu trí tuệ 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (gọi tắt là Luật sở hữu trí tuệ). Luật sở hữu trí tuệ điều chỉnh hầu như toàn bộ các vấn đề có liên quan đến đối tượng của sở hữu trí tuệ như điều kiện bảo hộ, chủ sở hữu, nội dung và thời gian bảo hộ, chuyển giao QSHTT,… Trong đó có quy định về quyền tài sản đối với đối tượng QSHTT, làm cơ sở cho các bên thực hiện giao dịch bảo đảm bằng QSHTT.
Luật sở hữu trí tuệ không có quy định cụ thể chỉ ra quyền tài sản đối với đối tượng QSHTT, mà chỉ quy định về từng vấn đề riêng lẻ như QSHTT, các đối tượng của QSHTT, các nhóm QSHTT với quy định về điều kiện bảo hộ, nội dung, giới hạn quyền, thời hạn bảo hộ, chủ sở hữu quyền và chuyển giao quyền. Do đó để hiểu được các loại QSHTT nào được dùng để làm tài sản bảo đảm cho khoản vay thì cả ngân hàng và người vay phải hiểu được loại tài sản này.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005, “QSHTT là quyền của tổ chức, cá nhân đối với TSTT, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng”. Theo đó QSHTT gồm ba nhóm quyền là quyền tác giả và quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng. Mỗi nhóm quyền khác nhau có đối tượng khác nhau, đặc điểm, điều kiện bảo hộ, thời gian bảo hộ khác nhau, và bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản khác nhau. Quyền nhân thân là quyền được trao cho người trực tiếp tạo nên kết quả sáng tạo, gắn liền với người đó và không thể chuyển giao. Quyền tài
sản là quyền trao cho người đã đầu tư thời gian, tài chính, các cơ sở vật chất, kỹ thuật để tạo nên kết quả sáng tạo. Cụ thể:
Thứ nhất, quyền tác giả và quyền liên quan
Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu (4, Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ). Đối tượng được bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam là các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.
Đặc điểm của quyền tác giả:
(i) Chỉ bảo hộ hình thức thể hiện, không bảo hộ nội dung, giá trị của tác phẩm. Do đó, quyền tác giả phát sinh kể từ thời điểm tác phẩm được định hình dưới hình thức vật chất nhất định.
(ii) Tác phẩm phải có tính nguyên gốc. Một tác phẩm được định hình dưới một dạng hình thức vật chất nhất định thì mới chỉ là điều kiện cần để phát sinh quyền tác giả đối với tác phẩm. Điều kiện đủ để một tác phẩm được bảo hộ đó là tính nguyên gốc. Nghĩa là tác phẩm đó phải do tác giả bằng trí tuệ của mình sáng tạo ra mà không sao chép từ một hay những tác phẩm khác.
Quyền tác giả được phát sinh khi tác phẩm có tính nguyên gốc và được thể hiện dưới một dạng vật chất nhất định, không phụ thuộc vào nội dung, giá trị của tác phẩm. Đây là nguyên tắc “bảo hộ tự động” của quyền tác giả. Chủ sở hữu tác phẩm không bắt buộc phải đăng ký quyền tác giả tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tác phẩm dù có đăng ký hay không đăng ký quyền tác giả đều được hưởng sự bảo hộ như nhau từ phía Nhà nước. Tuy nhiên, việc đăng ký quyền tác giả lại cần thiết và rất có ý nghĩa trong việc chứng minh quyền tác giả khi có tranh chấp xảy ra.
Quyền tác giả bao gồm: quyền nhân thân và quyền tài sản. Trong đó, quyền nhân thân gồm quyền nhân thân không gắn với quyền tài sản và quyền nhân thân gắn với quyền tài sản:
- Quyền nhân thân không gắn với quyền tài sản gồm: quyền đặt tên tác phẩm, đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, bảo vệ toàn vẹn của tác phẩm (4, Điều 19 Luật sở hữu trí tuệ). Các quyền này gắn với tác giả được bảo hộ vô thời hạn và không phải là đối tượng trong giao dịch bảo đảm tiền vay.
- Quyền nhân thân gắn với tài sản như quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm (4, Điều 19, khoản 3 Luật sở hữu trí tuệ) và quyền tài sản. Quyền tài sản bao gồm: (1) Quyền làm tác phẩm phái sinh; (2) Biểu diễn tác phẩm trước công chúng; (3) Sao chép tác phẩm; (4) Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm; (5) Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác; (6) Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính. (Điều 20 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005) Quyền nhân thân gắn với quyền tài sản và quyền tài sản được bảo hộ suốt cuộc đời tác giả cộng với năm mươi năm sau khi tác giả chết. Quyền nhân thân gắn với quyền tài sản và quyền tài sản sẽ thuộc về chủ sở hữu tác phẩm.
Quyền liên quan: Khoản 3 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ quy định: “Quyền liên quan là là quyền của tổ chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa”. Tương tự như quyền tác giả, quyền liên quan cũng được bảo hộ theo nguyên tắc “bảo hộ tự động” tức là nó phát sinh ngay khi cuộc biểu diễn; bản ghi âm, ghi hình; chương trình phát sóng và tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa được định hình. Việc đăng ký bảo hộ quyền liên quan với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền không phải là điều kiện bắt buộc.
Quyền tài sản của người biểu diễn bao gồm: Người biểu diễn được độc quyền thực hiện hoặc cho người khác thực hiện các quyền tài sản sau: (1) Định hình cuộc biểu diễn trực tiếp của mình trên bản ghi âm, ghi hình;(2) Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp cuộc biểu diễn của mình đã được định hình trên bản ghi âm, ghi hình; (3) Phát sóng hoặc truyền theo cách khác đến công chúng cuộc biểu diễn của mình chưa được định hình
mà công chúng có thể tiếp cận được, trừ trường hợp cuộc biểu diễn đó nhằm mục đích phát sóng; (4) Phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao cuộc biểu diễn của mình thông qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được. (Điều 29 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005)
Quyền tài sản của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình là độc quyền thực hiện hoặc cho người khác thực hiện các quyền tài sản sau: (1) Sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp bản ghi âm, ghi hình của mình; (2) Phân phối đến công chúng bản gốc và bản sao bản ghi âm, ghi hình của mình thông qua hình thức bán, cho thuê hoặc phân phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được. ( Điều 30 Luật sở hữu trí tuệ 2005)
Quyền tài sản của tổ chức phát sóng có độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện các quyền sau: (1) Phát sóng, tái phát sóng chương trình phát sóng của mình;
(2) Phân phối đến công chúng chương trình phát sóng của mình; (3) Định hình chương trình phát sóng của mình; (4) Sao chép bản định hình chương trình phát sóng của mình. ( Điều 31 Luật sở hữu trí tuệ 2005).
Thứ hai, quyền sở hữu công nghiệp
Quyền SHCN bao gồm sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, tên thương mại, bí mật kinh doanh, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn (khoản 2 Điều 3 Luật sở hữu trí tuệ), với các đặc điểm, điều kiện bảo hộ và thời hạn bảo hộ như sau:
- Sáng chế: Sáng chế là giải pháp kỹ thuật dưới dạng sản phẩm hoặc quy trình nhằm giải quyết một số vấn đề xác định bằng việc ứng dụng các quy luật tự nhiên (khoản 4, Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ). Điều kiện để sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền sáng chế là: có tính mới, có trình độ sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp. Điều kiện để một sáng chế được bảo hộ dưới hình thức cấp bằng độc quyền giải pháp hữu ích là: có tính mới, có trình độ sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp. Quyền sở hữu công nghiệp đối với
sáng chế và quyền sở hữu công nghiệp đối với giải pháp hữu ích được bảo hộ trong thời hạn bằng độc quyền có hiệu lực. Tại Việt Nam, bằng độc quyền sáng chế có hiệu lực từ ngày cấp đến hết 20 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ; bằng độc quyền giải pháp hữu ích có hiệu lực từ ngày cấp đến hết 10 năm từ ngày nộp đơn hợp lệ.
- Kiếu dáng công nghiệp: Kiểu dáng công nghiệp là hình thức bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng hình khối, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này. Kiểu dáng công nghiệp được bảo hộ nếu đáp ứng được các điều kiện: có tình mới; có tính sáng tạo và có khả năng áp dụng công nghiệp. Chủ thể muốn được hưởng quyền sở hữu công nghiệp đối với kiểu dáng công nghiệp tại Việt Nm phải làm đơn xin cấp bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp và nộp cho Cục SHTT. Thời hạn bảo hộ bằng độc quyền kiểu dáng công nghiệp là 5 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ và có thể được gia hạn liên tiếp 2 lần, mỗi lần 5 năm.
- Nhãn hiệu: Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Đặc trưng của nhãn hiệu là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. Nhãn hiệu phải có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của chủ thể khác.
Nhãn hiệu được phân chia thành các loại: nhãn hiệu thông thường (bao gồm cả nhãn hiệu hàng hóa và nhãn hiệu dịch vụ), nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu liên kết, nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu nổi tiếng. Chủ thể muốn được cấp văn bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu tại Việt Nam phải làm đơn xin cấp văn bằng bảo hộ và nộp cho Cục SHTT. Văn bằng bảo hộ có hiệu lực từ ngày cấp đến hết 10 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ và có thể được gia hạn liên tiếp nhiều lần, mỗi lần 10 năm. Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu nổi tiếng được bảo hộ vô thời hạn và không phụ thuộc vào bất kỳ một thủ tục đăng ký nào. Khi góp vốn bằng nhãn hiệu thì việc chuyển giao quyền đối với nhãn hiệu không được gây ra sự nhầm lẫn về đặc tính, nguồn gốc của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu. Nhãn
hiệu chỉ được góp vốn cho tổ chức, đáp ứng các điều kiện đối với người có quyền đăng ký nhãn hiệu đó (khoản 4, Điều 139 Luật sở hữu trí tuệ). Ngoài ra, quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể không được góp vốn cho các tổ chức không phải là thành viên của chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể đó.
- Tên thương mại: Tên thương mại là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tên thương mại sẽ không được bảo hộ nếu trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với tên thương mại của người khác đã được sử dụng từ trước trên cùng một khu vực kinh doanh và trong cùng một lĩnh vực kinh doanh, hoặc trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác hoặc chỉ dẫn địa lý đang còn hiệu lực bảo hộ từ trước khi bắt đầu sử dụng tên thương mại đó. Tên thương mại được tự động bảo hộ (không cần đăng ký) khi đáp ứng các yêu cầu nêu trên. Tên thương mại được bảo hộ chừng nào chủ sở hữu vẫn còn duy trì hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại đó. Tên thương mại được quyền góp vốn bằng việc chuyển giao quyền sở hữu tên thương mại đó cùng với cơ sở kinh doanh và không được quyền góp vốn bằng quyền sử dụng tên thương mại (khoản 4, Điều 142 Luật sở hữu trí tuệ).
- Bí mật kinh doanh: Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh. Bí mật kinh doanh được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện: (i) không phải là hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được; (ii) khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ bí mật kinh doanh lợi thế so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng bí mật kinh doanh đó; (iii) được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để bí mật kinh doanh đó không bị bộc lộ với danh nghĩa bí mật kinh doanh gồm: bí mật về nhân thân, bí mật về quản lý nhà nước; bí mật về quốc phòng, an ninh; thông tin bí mật khác liên quan đến kinh doanh. Bí mật kinh doanh được bảo hộ mà không cần phải nộp đơn đăng ký và được bảo hộ khi bí mật kinh doanh đáp ứng đủ các điều kiện bảo hộ như đã nêu trên và không phải là bí mật về nhân thân, bí mật về quản lý nhà nước, bí mật quốc phòng, an ninh, thông tin bí mật khác không liên quan đến kinh doanh.
- Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn (Thiết kế bố trí): Thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn là cấu trúc không gian của phần tử mạch và mối liên kết của các phần tử đó trong mạch tích hợp bán dẫn (khoản 15, Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ). Thiết kế bố trí được bảo hộ nếu đáp ứng hai điều kiện: có tính nguồn gốc và có tính mới thương mại. Tính nguyên gốc: thiết kế bố trí là kết quả lao động sáng tạo của chính tác giả và chưa được những người sáng tạo thiết kế bố trí và những nhà sản xuất mạch tích hợp bán dẫn biết đến một cách rộng rãi tại thời điểm tạo ra thiết kế bố trí đó. Tính mới thương mại: thiết kế bố trí chưa được khai thác thương mại tại bất kỳ nơi nào trên thế giới trước ngày nộp đơn đăng ký. Để được hưởng quyền đối với thiết kế bố trí tại Việt Nam thì tác giả phải làm đơn xin cấp Bằng độc quyền thiết kế bố trí tại Cục SHTT. Đây chính là cơ sở ghi nhận quyền chủ sở hữu và chủ thể quyền có quyền góp vốn bằng quyền sở hữu công nghiệp đối với thiết kế bố trí vào mục đích kinh doanh.
Các quyền tài sản của tác giả sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí là quyền nhận thù lao theo quy định (Khoản 3 Điều 122 Luật sở hữu trí tuệ 2005).
Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp có các quyền tài sản sau đây: (1) Sử dụng, cho phép người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định; (2) Ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp; (3) Định đoạt đối tượng sở hữu công nghiệp theo quy định. (Khoản 1 Điều 123 Luật sở hữu trí tuệ 2005).
Thứ ba, quyền đối với giống cây trồng
Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây trồng mới do mình chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu (Khoản 5 Điều 4 Luật sở hữu trí tuệ 2005).
Đối tượng của quyền đối với giống cây trồng là vật liệu nhân giống và vật liệu thu hoạch. Trong đó: Vật liệu nhân giống là cây hoặc bộ phận của cây có khả năng phát