CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TÍN DỤNG BẰNG QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ TRONG
HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
3.1. Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về biện pháp bảo đảm tiền vay bằng QSHTT trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về về giao dịch bảo đảm và luật sở hữu trí tuệ để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật luôn là vấn đề được Ðảng và Nhà nước ta dành sự quan tâm đặc biệt, nhất là hiện nay chúng ta đang tiến hành xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Nghị quyết Ðại hội lần thứ XI của Ðảng đã chỉ rõ, "Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thật sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Ðảng lãnh đạo; thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội... Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để vận hành có hiệu quả nền kinh tế và thực hiện tốt các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc".
Pháp luật về về giao dịch bảo đảm và luật sở hữu trí tuệ là một phần của hệ thống pháp luật Việt Nam, việc hoàn thiện pháp luật về về giao dịch bảo đảm và luật sở hữu trí tuệ là góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Như đã nêu tại Chương II của bài viết, pháp luật Việt Nam hiện hành đang thiếu những quy định trực tiếp điều chỉnh các giao dịch bảo đảm bằng QSHTT. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật về giao dịch bảo đảm và luật sở hữu trí tuệ thực sự là nhu cầu thiết yếu nhằm tạo hành lang, cơ sở pháp lý cho hoạt động cho vay có bảo đảm bằng QSHTT trong các ngân hàng thương mại.
Có thể bạn quan tâm!
- Tài Sản Bảo Đảm - Qshtt, Được Điều Chỉnh Tương Đối Đầy Đủ.
- Biện pháp bảo đảm tín dụng bằng quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động của Ngân hàng thương mại trong pháp luật Việt Nam - 7
- Khi Một Tài Sản Được Dùng Để Bảo Đảm Thực Hiện Nhiều Nghĩa Vụ Thì Thứ Tự Ưu Tiên Thanh Toán Giữa Các Bên Cùng Nhận Bảo Đảm Được Xác Định Như
- Biện pháp bảo đảm tín dụng bằng quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động của Ngân hàng thương mại trong pháp luật Việt Nam - 10
Xem toàn bộ 82 trang tài liệu này.
Việc hoàn thiện pháp luật về giao dịch bảo đảm và luật sở hữu trí tuệ không chỉ là nhiệm vụ của cơ quan lập pháp mà là nhiệm vụ chung của tất cả các chủ thể trong xã hội, đặc biệt là các chủ thể trực tiếp tham gia vào hoạt động cho vay có bảo đảm bằng
QSHTT. Pháp luật ra đời nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, khi các mối quan hệ xã hội có sự thay đổi thì đòi hỏi pháp luật cũng phải thay đổi theo. Để đảm bảo tính khả thi, các quy định pháp luật cần phải được xây dựng trên cơ sở thực tiễn và nhu cầu của các chủ thể tham gia giao dịch. Vì vậy, các văn bản pháp luật trước khi ban hành luôn được tham khảo ý kiến của các cơ quan hữu quan và các tổ chức, doanh nghiệp để kịp thời tiếp thu, sửa đổi các điểm bất cập, hạn chế.
Ngoài các chủ thể tham gia hoạt động cho vay có bảo đảm bằng QSHTT, các cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ như: Cục sở hữu trí tuệ, các cơ quan chuyên môn. Và các tư pháp như Tòa án, cơ quan Thi hành án cũng là những cơ quan có những đóng góp to lớn cho việc hoàn thiện pháp luật về cho vay có bảo đảm bằng QSHTT. Những vướng mắc, bất cập, yếu kém của pháp luật được phát hiện trong thực tiễn xét xử, thi hành án dân sự sẽ là nguồn đóng góp quan trọng nhằm hoàn thiện pháp luật.
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật giao dịch bảo đảm và luật sở hữu trí tuệ để đáp ứng yêu cầu từ thực tiễn hoạt động của các Ngân hàng thương mại
Đối với các loại tài sản bảo đảm hữu hình, khi bên có nghĩa vụ được bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ, bên nhận bảo đảm có thể tịch thu, thu giữ tài sản bảo đảm để xử lý. Nhưng đối với tài sản bảo đảm là QSHTT - một loại tài sản vô hình, bên nhận bảo đảm không thể áp dụng biện pháp thu giữ mà chỉ có thể thông báo và tiến hành các biện pháp xử lý tài sản thế chấp theo thỏa thuận trong hợp đồng. Như vậy, việc xử lý QSHTT của bên nhận thế chấp khó khăn hơn việc xử lý tài sản bảo đảm hữu hình rất nhiều. Trường hợp được nhận bảo đảm với tính chất là tài sản bảo đảm chính thì bên được bảo đảm thường sẽ phải đáp ứng các điều kiện được cho vay không có bảo đảm theo quy định của Ngân hàng thương mại. Sở dĩ có tình trạng nêu trên là bởi vì pháp luật hiện hành chưa có một cơ chế chắc chắn để bảo đảm quyền lợi của bên nhận thế chấp QSHTT. Nếu như vấn đề quản lý QSHTT là vấn đề các Ngân hàng thương mại có thể kiểm soát, chủ động được thông qua các biện pháp như thông báo với bên có nghĩa vụ thanh toán, yêu cầu bên bảo đảm mở tài
khoản tại Ngân hàng thương mại nhận thế chấp để nhận các khoản thanh toán của bên có nghĩa vụ thì vấn đề xử lý QSHTT lại không phải vấn đề các Ngân hàng thương mại được tự do thực hiện mà phải trên cơ sở quy định của pháp luật. Như vậy, vấn đề vướng mắc lớn nhất cần giải quyết là đưa ra cơ chế xử lý một cách hiệu quả QSHTT và một trong những biện pháp có thể xem xét lựa chọn là trao quyền chủ động cho bên nhận thế chấp. Theo đó, nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại hợp đồng phát sinh QSHTT, bên nhận thế chấp có thể áp dụng các biện pháp hợp pháp để thu hồi số tiền bên có nghĩa vụ phải thanh toán, bao gồm nhưng không giới hạn các biện pháp như thu giữ tài sản khác của bên có nghĩa vụ, yêu cầu ngân hàng nơi bên có nghĩa vụ mở tài khoản phong tỏa tài khoản, trích tiền từ tài khoản của bên có nghĩa vụ thanh toán.
Nếu vướng mắc về cách thức xử lý QSHTT được giải quyết, QSHTT có thể trở thành một loại tài sản bảo đảm thực thụ, phát huy được vai trò của mình và mang lại cơ hội tiếp cận nguồn vốn rất lớn cho các thành phần kinh tế trong xã hội. Đồng thời, cũng mở ra cơ hội kinh doanh mới cho các tổ chức tín dụng nói chung và các Ngân hàng thương mại nói riêng.
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về thế chấp QSHTT để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, một trong những yếu tố được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm hàng đầu trước khi đưa ra quyết định đầu tư vào Việt Nam đó là hệ thống pháp luật. Sự hoàn thiện, ưu việt, minh bạch của hệ thống pháp luật không chỉ là thước đo sự phát triển của một quốc gia mà còn là một yếu tố có sức hút mãnh liệt đối với các nhà đầu tư. Thật vậy, khi đầu tư vào một quốc gia, các nhà đầu tư cần biết chắc chắn rằng nếu có rủi ro, tranh chấp xảy ra đối với nguồn vốn của mình, họ có thể được bảo vệ bởi pháp luật của nước sở tại hay không, có cơ sở để thu hồi vốn hay không. QSHTT là loại tài sản hữu hình chỉ bắt đầu được thừa nhận trong thời đại kinh tế thị trường, như vậy có thể nói QSHTT là loại tài sản của xã hội văn bản. Do đó,
sự hoàn thiện của pháp luật về thế chấp QSHTT sẽ là minh chứng xác đáng thể hiện sự tiến bộ của một hệ thống pháp luật.
Hiện nay, vươn ra thị trường quốc tế là mục tiêu của rất nhiều các doanh nghiệp Việt Nam. Để làm được điều này không chỉ cần sự nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp trong việc nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh mà còn phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống pháp luật Việt Nam. Tại nhiều quốc gia trên thế giới, sự phát triển của hệ thống pháp luật của nước mà doanh nghiệp đó mang quốc tịch là một trong những điều kiện đầu tiên quyết định việc một doanh nghiệp có thể đầu tư vào quốc gia đó hay không.
Khi Việt Nam tham gia vào các tổ chức quốc tế, sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật cũng là một trong những yếu tố quan trọng được các tổ chức này quan tâm, xem xét. Do đó, muốn hội nhập kinh tế quốc tế, một đòi hỏi cấp thiết là Việt Nam cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hơn nữa vai trò của pháp luật.
Trong thời gian gần đây QSHTT mới trở thành loại tài sản bảo đảm phổ biến và được các Ngân hàng thương mại nhận thế chấp một cách rộng rãi. Có lẽ một phần vì lý do đó mà các quy định của pháp luật về vấn đề thế chấp QSHTT còn khá hạn chế và bất cập.
3.2. Một số đề xuất cụ thể nhằm góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật về biện pháp bảo đảm tiền vay bằng QSHTT trong hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại.
3.2.1. Đối với nhà nước
Nhà nước nước phải cung cấp một môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động cho vay có bảo đảm bằng quyền sở hữu trí tuệ, mà trọng tâm là việc áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng QSHTT.
Tài sản bảo đảm là quyền tài sản đối với đối tượng QSHTT (trong bài gọi tắt là QSHTT). Để cả phía ngân hàng và bên vay chấp nhận và sử dụng QSHTT làm tài sản
bảo đảm trong hoạt động cho vay, thì QSHTT phải cho các chủ thể thấy được giá trị của nó, những lợi ích mà nó mang lại, khả năng có thể thực hiện được, thực hiện được một cách thuận lợi, đơn giản, khả năng có thể kiểm soát được và tính an toàn về mặt pháp lý của nó. Do đó, nhà nước với vai trò tạo ra môi trường pháp lý và định hướng phát triển cần có những chính sách về QSHTT hợp lý để nhận thức kịp thời về tầm quan trọng của QSHTT trong nền kinh tế hiện đại và có những chính sách bảo hộ tốt hơn đối với quyền của người sở hữu TSTT và QSHTT, cụ thể:
Nhà nước nên có những thống kê, báo cáo hàng năm về thị trường QSHTT để tạo lập một hệ thống thông tin đáng tin cậy cho các đối tượng quan tâm, làm hạn chế rủi ro về thông tin bất cân xứng.
Nhà nước nên có những dự án, chương trình giúp nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của QSHTT trong người dân để gia tăng nhận diện với QSHTT, giúp mở rộng thị trường người mua, người bán cũng như giúp bảo vệ tốt hơn giá trị của các QSHTT từ trong người dân. Chủ động tạo ra các thị trường chấp nhận QSHTT để có môi trường phát triển loại hình tài sản này, do đó sẽ tạo ra nhiều cơ hội hơn cho việc sử dụng QSHTT làm tài sản bảo đảm.
Nhà nước cần tiếp tục thiết lập một hệ thống cấp độc quyền sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá và các loại QSHTT khác, tạo động lực cho sự sáng tạo và kích thích sự đổi mới trong khi vẫn thúc đẩy cạnh tranh công bằng bằng cách đảm bảo rằng chỉ những người sở hữu trí tuệ có đủ điều kiện để có thể tồn tại lâu dài quá trình kiểm tra được độc quyền.
Thứ hai, về chế độ đăng ký giao dịch bảo đảm
Nhà nước cần tiếp tục xây dựng và vận hành một hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm liên quan đến QSHTT để tăng cường tính minh bạch của giao dịch bảo đảm. Như đã phân tích ở mục 2.2.2.3. thì để tạo ra sự tập trung trong quản lý QSHTT nói chung và các giao dịch về QSHTT nói riêng, sự hiệu quả trong việc đăng ký giao dịch bảo đảm thì Nhà nước nên giao cho Cục sở hữu trí tuệ là cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ. Đồng thời Nhà nước nên bổ sung quy định về
sự phối hợp giữa cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm với phía ngân hàng trong việc quản lý QSHTT trong thời gian bảo đảm như: không tiến hành đăng ký các giao dịch chuyển giao QSHTT đang là tài sản bảo đảm mà không có sự đồng ý của bên ngân hàng, đồng thời có thông báo cho bên ngân hàng biết.
Thứ ba, về biện pháp xử lý tài sản bảo đảm.
Để hỗ trợ các ngân hàng trong việc xử lý tài sản bảo đảm, nhà nước cần đẩy mạnh nghiên cứu và áp dụng các biện pháp xử lý tài sản mới. Nghị định 42/2017/NĐ-CP về thí điểm xử lý nợ xấu của các NHTM đã trao cơ hội cho các ngân hàng được áp dụng những biện pháp xử lý tài sản bảo đảm mới, trong đó tăng cường trao quyền cho phía ngân hàng, như quyền thu giữ tài sản bảo đảm, thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, để các biện pháp này được áp dụng rộng rãi và thực sự hỗ trợ cho các ngân hàng, thì các cơ cơ quan nhà nước cần tích cực phối hợp, hỗ trợ ngân hàng trong việc xử lý tài sản bảo đảm, tổ chức tổng kết, đánh giá kết quả triển khai các biện pháp này, từ đó đề ra những biện pháp xử lý tài sản bảo đảm phù hợp hơn.
Thứ tư, về hướng dẫn cụ thể về hoạt động cho vay có bảo đảm bằng QSHTT
Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước trong hoạt động ngân hàng, trong đó có hoạt động cho vay, ngân hàng nhà nước cần có những chính sách khuyến khích hoạt động cho vay có bảo đảm bằng QSHTT của các NHTM. Ngân hàng nhà nước cần đẩy mạnh việc nghiên cứu, xây dựng văn bản hướng dẫn các NHTM thực hiện việc cho vay có bảo đảm bằng QSHTT, xây dựng các tiêu chuẩn về tài sản bảo đảm và hướng dẫn việc xử lý QSHTT khi nghĩa vụ trả nợ, từ đó mới thực sự khuyến khích các NHTM thực hiện việc cho vay có bảo đảm bằng QSHTT.
3.2.2. Đối với ngân hàng
Các NH cần chấp nhận nó như một tài sản có thể bảo đảm cho vay để mở rộng thị trường và gián tiếp giúp nâng cao nhận thức đối với QSHTT . Cán bộ tín dụng phải có cập nhật nhanh chóng với thị trường QSHTT , cũng như cách xác định giá trị QSHTT
cho mục đích đảm bảo cho vay phù hợp với thị trường cho vay của Việt Nam và sự an toàn của NH. Cần bổ trợ kiến thức về thẩm định tài sản vô hình nói chung và QSHTT nói riêng cho các cán bộ tín dụng. QSHTT thường có thị trường giao dịch rất nhỏ và khá đặc thù. Theo lẽ thường, với loại giao dịch này, chỉ cần có bên mua và bên bán đồng ý thì giao dịch sẽ diễn ra mà không cần hoạt động định giá độc lập và chuyên nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động định giá đối với các NH trước khi quyết định tài trợ vốn cho DN dựa trên tài sản đảm bảo là QSHTT lại rất quan trọng và đòi hỏi sự cẩn trọng, tỉ mỉ. Mục đích việc định giá QSHTT là lường trước các khả năng rủi ro, đánh giá mức độ sinh lời, lợi nhuận đầu tư vào “hàng hóa” là QSHTT . Để làm tốt được công việc này đòi hỏi bộ máy NH phải có bộ phận chuyên trách, am hiểu pháp luật về sở hữu trí tuệ và các kỹ năng chuyên môn về thẩm định, định giá QSHTT . Một cách khác giúp NH có thể thực hiện được công tác thẩm định, định giá QSHTT là ký hợp đồng “out- sourcing” với bên thứ ba để thuê mua dịch vụ này. Bên thứ ba sẽ phân tích, đánh giá minh bạch giá trị QSHTT , giải trình rõ ràng, ký xác nhận, chịu trách nhiệm về công tác thẩm định đối với NH. Thẩm định QSHTT là một nghiệp vụ rất quan trọng trước khi tài trợ vốn, vì nó quyết định đến giá trị của QSHTT . Một số yếu tố cần xét đến khi thẩm định thường là: Lường trước các vụ tranh chấp pháp lý có thể xảy ra ở hiện tại và tương lai; mức độ uy tín của công ty luật tư vấn; tư cách của luật sư tham gia thẩm định; và tính chuyên nghiệp của tư vấn kỹ thuật và công nghệ…
NH cần có những điều khoản pháp lý ràng buộc chặt chẽ quyền lợi và nghĩa vụ các bên liên quan trong hợp đồng thế chấp QSHTT , đối với các tài sản hiện tại và tài sản tương lai, vì tài sản tương lai thì khó có thể định giá hơn.
Kinh nghiệm cho thấy, vì bên đi vay là bên luôn cần vốn tài trợ, nên họ thường dễ dàng đồng ý ký kết thụ động với các điều khoản hợp đồng do NH dự thảo. Trong quá trình cho vay đối với trường hợp dùng QSHTT làm tài sản đảm bảo cán bộ tín dụng cần chú ý những điều sau:
- Thường xuyên đánh giá lại chiến lược sở hữu trí tuệ;
- Không bỏ mặc các vấn đề về sở hữu trí tuệ;
- Đảm bảo rằng TSTT ở trạng thái tốt nhất khi ra bán công ty;
- Đảm bảo rằng chính sách bảo hiểm sẽ phải bao trùm cả các loại QSHTT trong quá trình bán công ty;
- Đối với doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp cần gia tăng mức độ nhận thức và sử dụng QSHTT, bằng cách:
- Có những trợ cấp cho việc sử dụng các hệ thống QSHTT : Các chủ sở hữu nên có nguồn vốn nhất định hỗ trợ cho QSHTT , nhằm bảo vệ các quyền sở hữu trí tuệ của mình, tránh bị làm giả, lạm dụng hình ảnh khiến giảm giá trị.
- Luôn tự theo dõi QSHTT của mình và có những báo cáo biến động hàng năm thích hợp để cung cấp thông tin, hạn chế rủi ro do thông tin bất cân xứng.
- Xây dựng hệ thống nhận thức và năng lực nhận thức rõ hơn về lợi ích của việc bảo vệ sáng kiến của mình đối với quyền sở hữu trí tuệ, và trang bị cho chủ sở hữu những khả năng để duy trì giá trị của QSHTT . Bảo đảm cho QSHTT của mình có thể được bảo vệ khỏi các rủi ro. Tự bảo vệ các QSHTT của mình trước các rủi ro về thị trường, rủi ro kinh tế và lạc hậu về công nghệ để không bị tác động đến giá trị. Đăng ký những văn bằng bảo hộ cần thiết với các quyền sở hữu trí tuệ và có các biện pháp bảo vệ QSHTT .