Tổng 16 Bản Dân Bị Thiệt Hại Bởi Dự Ánthủy Điện Nn2


Chương 3

DI DÂN TÁI ĐỊNH CƯ, MÔI TRƯỜNG VÀ TIỀN ĐỀ BIẾN ĐỔI SINH KẾ


3.1. Thủy điện NN2 và yêu cầu di dân

3.1.1. Thủy điện NN2

Sông Nam Ngưm(NN) là một trong các con sông lớnở Lào, là nguồn cung cấp nước cho toàn bộ đồng bằng Viêng Chăn.Sông này, bắt nguồn từ tỉnh Xieng Khoảng đến tỉnh Viêng Chăn với chiều dài 354 km.Vào năm 1987, thủy điện NN2 được nghiên cứu bởi Thụy Sĩ cùng với hai nghiên cứu khả thi của thủy điện Nam Nam Thuen2 và thủy điện Nam Ngưm3. Đến năm 2006,nhà máy thủy điện NN2 được chính thức xây dựng, lúc này docông ty xây dựng Ch.Karnchang Ltd của Nhật Bản, vốnđầu tư tất cả là khoảng 832 triệu $, có công suất 615 MW. Vị trí, được xây dựng nằm trên thượng nguồn của thủy điện Nam Ngưm1 (NN1) khoảng 35 km và cách trung tâm tỉnh Viêng Chăn khoảng 200 km về phía Đông Bắc. Thủy điện này, xây dựng hoàn thành vào cuối năm 2011[10, tr. 3-4]. Dự án thủy điện NN2 được cho là một dự án tốt nhất, có nguồn cung cấp lớn về năng lượng, đóng góp quan trọng về phát triển kinh tế và mong muốn đạt được xóa đói giảm nghèobền vững,do vậy thủy điện NN2 là cần thiết xây dựng[20].

3.1.2. Yêu cầu di dân

Việc triển khai xây dựng thủy điện NN2 đã thu hồi khoảng 5.200 ha đất tự nhiên, chiếm 5% của diện tích huyện Mương Phun. Trong diện tích đó, gây thiệt hại đến vị trí canh tác và nơi cư trú người dân và các cơ sở hạ tầng của Nhà nước. Tổng số dân bị ảnh hưởng trực tiếp gồm có 16 bản dân, 1.164 hộ gia đình với dân số là 6.871 người, gồm có người Khơmú, người Lào và người Hmông. Các dân tộc này cư trú trên các vùng khác nhau trong khu vực sông


Nam Ngưm, chủ yếu sống bằng canh tác nông nghiệp và phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Đối với người Khơmú có 780 hộ, 4.640 người, đất sản xuất nông nghiệp bị thiệt hại là 1.475 ha, vật nuôi 18.076 con và cây trồng 5.400 cây, chủ yếu là cây ăn quả và công công nghiệp. Người Lào có 363 hộ, 1.873 người, đất sản xuất nông nghiệp bị thiệt hại là 716 ha, vật nuôi 6.010 con và cây trồng 10.122 cây. Người Hmông có 78 hộ, 358 người, đất sản xuất nông nghiệp bị thiệt hại là 271 ha, vật nuôi 3,095 con và cây trồng 11.500 cây.

Bảng 3.1: Tổng 16 bản dân bị thiệt hại bởi dự ánthủy điện NN2


STT

Tên bản dân

Số hộ

Bản dân

1

Bản Ko Mi

109

Khơmú

2

Bản Viêng Keo

46

Khơmú

3

Bản Hoauysaykham

57

Khơmú

4

Bản Phonethong

41

Khơmú

5

Bản Lak 37

55

Khơmú

6

Bản Natu

103

Khơmú

7

Bản Naluang

94

Khơmú

8

Bản Phonesaaytai

91

Khơmú

9

Bản Phonesaykang

97

Khơmú

10

Bản Phanhengnue

70

Khơmú

11

Bản Phonekeo

80

Lào + Khơmú

12

Bản Phonekham

59

Lào + Khơmú

13

Bản Khoaleck

56

Lào

14

Bản Phonesaynue

66

Lào

15

Bản Phanhengtai

97

Lào + Hmông + Khơmú

16

Bản Lak 33

43

Hmông


Tổng

1.164


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

Biến đổi sinh kế của người dân tái định cư thủy điện Nam Ngưm 2, bản Phonesavat, huyện Mương Phương, tỉnh Viêng Chăn, Lào - 8

Nguồn: Số liệu do tác giả thu thập, Bản Phonesavat, 2016

Bảng 3.2: Tổng số dân và các tài sản bị ảnh hưởng bởi dự án


STT


Khơmú

Lào

Hmông

1

Tổng số hộ (hộ)

780

363

78

2

Tổng dân số (người)

4.640

1.873

358

3

Đất sản xuất (ha)

1.475

716

271

4

Vật nuôi (con)

18.076

6.010

3.095

5

Cây trồng (cây)

15.400

10.122

11.500

Nguồn: Số liệu do tác giả thu thập, Bản Phonesavat, 2016


3.1.3. Chính sách của Chính phủ Lào

Với sự quan tâm của Chính phủ Lào về giảm thiểu tác động bất lợi tới sinh kế người dân, các chính sách được đề ra như sau:

- Nghị định của Chính phủ số 192, ngày 07/07/2005 về việcbồi thường và tái định cư của các Dự án Phát triển.

- Nghị định của Chính phủ số 88, ngày 03/06/2008 về Tổ chức thực hiện luật đất đai.

- Nghị định của Chính phủ số 201/TT-CP, ngày 25/03/2012 về Tiêu chuẩn nghèo và Tiêu chuẩn phát triển giai đoạn 2012-2015.

- Nghị định số 309, ngày 14/11/2015 Về tiêu chuẩn xóa đói giảm nghèo và phát triển giai đoạn 2015-2020.

- Nghị định của Chính Phủ số 84/TT-CP, ngày 05/04/2016 về Đền bù bồi thường thiệt hại và Di dân tái định cư của các dự án phát triển.

- Quy định của Bộ Tài nguyên và Môi trường số 2432, ngày 11/11/2005

về Tổ chức thực hiện bồi thường và Tái định cư của dự án phất triển.

- Quyết định số 707/BTN-MT, ngày 05/02/2013 Về sự tham gia của người dân trong đánh giá tác động môi trường và xã hội của các dự án.

- Quyết định của Chủ tịch Ủy ban quản lý Môi trường và Tái định cư số 01219, ngày 20/09/2007.

- Luật đất đai của số 04, ngày 21/10/2003 về Quy định giá đất bị thiệt hại bởi dự án.

- Chỉ thị số 03, ngày 30/4/2011 Về xây bản nhỏ thành đơn vị phát triển, xây bản lướn thành huyện nhỏ nông thôn.


3.2. Di dân và tái định cư

3.2.1. Quan điểm của Nhà nước

Các quan chức Nhà nước cho rằng tái định cư là một phần trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia “nhổ tận gốc nghèo”. Theo lời của một quan chức thuộc văn phòng của Chính phủ cho biết trong cuộc họp thảo luận của dự án: "Những người này là những người nghèo và họ thu nhập hiện nay phụ thuộc vào mùa màng của tự nhiên, việc di dời đến một khu vực mới có dự án tương trợ là cơ hội làm cho cuộc sống của họ tốt hơn. Nếu chúng ta không đặt chúng đến một nơi nào tốt hơn, chúng sẽ không giúp được mình xóa đói giảm nghèo của bất kỳ ai". Do vậy, việc di dời tới nơi ở mới là rất cần thiết đối với người dân.Sau đó, Nhà nước có nhấn mạnh thêm về những lợi ích được hưởng từ dự án cho người dân địa phương. Phía người dân bị ảnh hưởng bởi dự án có quyền nhận được như trong nội dung của các Nghị định và pháp luật mà Đảng và Nhà nước Lào đã đề ra. Nhà nước sẽ chỉ đạo Dự án chăm sóc chu đáo và đảm bảo đời sống của người dân được cải thiện tốt hơn và xứng đáng hơn. Các phong tục tập quán, văn hóa và tôn giáo đều được tôn trọng và bảo quảnxứng đáng. Ngoài ra, dự án sẽ có biện pháp hỗ trợ đặc biệt đưa vào kế hoạch tái định cư để bảo vệ xã hội và kinh tế nhóm dễ bị tổn thương như người dân tộc thiểu số, các gia đình do phụ nữ, trẻ em tàn tật và người già không có cơ hội tăng tiến và những người dân tộc đa số cùng khổ.Như vậy, một khi dân làng đang bị thuyết phục bởi các đối số bên liên quan, đã làm cho người dân quyết định di dời và TĐC tại nơi ở mới [7, tr. 5].

3.2.2. Thực hiện di dân

Việc di chuyển dân được thực hiện vào tháng 3 năm 2011. Trong đó được chia thành 2 nhóm di chuyển đến 2 khu TĐC khác nhau như:Một tỷ lệ nhỏ dân cư gồm có 83 hộ TĐC ở lại tại khu vựcphía Bắc của vùng dự án giữa


Namtei và làng Na-Nhao, huyện Mương Phuncũ thuộc tỉnh Saysombun, cách xa từ vùngdự án khoảng 20 km về phía Bắc. Nhóm lớn gồm có 1.164 hộ được chuyển cư đến khu TĐC bản Phonesavat nằm ở giữa làng Khounluang và Naxaeng, huyện Mương Phương thuộc tỉnh Viêng Chăn, cách xa từ địa bàn cũ xuống về phía Tây khoảng 200 Km. Trong chính sách di dân của Chính phủ Lào, nhà quản lý dự án phải có trách nhiệm chi trả toàn bộ chi phí và phương tiện vận chuyển tới nơi ở mới dưới kiểm tra và giám sát của Ủy ban quản lý chương trình di dân tái định cư. Người dân được quyền mang đi các loại tài sản vật chất có giá trị kinh tế và tinh thần đến nơi ở mới. Đồng thời, dự án có trách nhiệm hỗ trợ thực hiện các lễ nghi cho dân trước di dời và sau khi đến tại nơi ở mới. Hơn nữa, nhà quản lý dự án phải có trách nhiệm chuẩn bị một bữa cơm trưa khi đang trên đường đi và một bữa tiệc đón nhận khi dân đến nơi. Còn đối với nhóm dân tự di dời không theo kế hoạch, dự án phải ưu tiên cung cấp thêm một lần tiền bồi thường để họ tự cải thiện được cuộc sống kèm theo cung cấp giấy tờ được chứng nhận của chính quyền địa phương cho dân. Còn nhóm đi theo kế hoạch thì sẽ được hưởng bồi thường nhà ở mới, đất đai phát triển sản xuất và một số cơ sở hạ tầng cơ bản như: đường ghiao thông, điện, nước sạch, trường học, trung tâm y tế, chợ trao đổi buôn bán... Trong đó, người dân làng của Ban Pa Ngieng Tai là nhóm di chuyển cuối cùng vào tháng 10 năm 2011[7, tr.7].

3.2.3. Thực hiện tái định cư

Khu TĐC bản Phonesavat được thiết kế thành 3 khu lớn như: Keomisay, Phonesavat và Xaysamphan. Trong đó mỗi khu có khoảng 250 đến 300 hộ dân. Các làng dân của các tộc ngườikhác nhau trước đây được ban quản lý dự án sắp xếp vào nhau cùng tái định cư thành một bản lớn. Chế độ phân bố, các dân tộc được phân bố nơi ở rải rác và xáo trộn nhau. Hình thức


phân bố này khiến cho nhiều người già làng trưởng tộc và trưởng họ không được ở cùng với cộng đồng dân của mình, phá vỡ mạng lưới xã hội của người dân. Khi được hỏi, người dân cho rằng họ không có tiếng nói đáng kể nào trong việc quyết định của sự sắp xếp này [18].

Đất đai được phân theo khu, mỗi khu được bố trí nơi sản xuất riêng, mỗi hộ dân được phân một diện tích đất để trồng lúalà 40x40m, phân thêm một diện tích để trồng trọt là 4x10m và một diện tích đất nhà là 20x30m. Tuy nhiên, đất để trồng lúa chủ yếu là đất núi mà người dân cảm thấy không thể trồng lúa được và sản phẩm thu hoạch sẽ không đủ gia đình ăn qua năm.Theo thông tin một người dân ở bản Phonesavat cho biết: “Từ sau tái định cư chúng tôi không có tái sản sinh kế nào để nuôi sống, nhất là không có đất sản xuất, khiến cho chúng tôi gặp khó khăn trong việc ăn uống”. Như vậy, trong khi người dân không đủ ăn, đủ uống và mặc thì không thể phát triển kinh tế được. Ban quản lý dự án đã không bố trí đủ đất cho người dânđể nuôi sống và sự thực hiện này làvượt xa với nội dung của chính sách tái định cư.

3.2.4. Thực hiện đền bù

Trong phương pháp thu thập thông tin về các tài sản bị thiệt hại của cán bộ dự án chủ yếu là hỏi trực tiếp từng hộ dân theo nội dung bảng hỏi. Sau quá trình hỏi là có xem và đếm trực tiếp các tài sản của người dân. Mỗi cuộc thu thập thông tin và số liệu luôn có sự tham gia của cán bộ Nhà nước từ các Ban ngành liên quan. Quyển sổ thông tin được phép đóng trong thời gian 6 tháng sau khi thu thập thông tin xong. Các tài sản bị thiệt hại được tiến hành đèn bù như:Loại đất nương định canh mà giấy sử dụng đấtthì được đánh giá đền bù

15.000.000 kip/ha.Đất ruộng rơm được dân canh tác lâu năm hoặc ít nhất 1 năm trở lên được đánh giá bồi thường với giá 40.000.000 kip/ha.Đất vườn định canh mà có giấy tờ sử dụng đất đầy đủ thì được đánh giá đền bù là


2.000.000 kip/ha.Bãi chăn nuôi, chủ yếu là khu chăn nuôi gia súc có diện tích từ 1 ha trở lên và có giấy tờ sử dụng đầy đủ của chính quyền địa phươngđược đánh giá bền bù 200.000 kip/ha.Đối với các loại công nghiệpđược đánh giá đền bù 200.000 kíp/cây.Đối với cây ăn quả, nhất là nhữngcây có quả hàng năm thì được đánh giá đền bù 100.000 kip/cây.Vật nuôi, đặc biệt là trâu, bò, ngựa thì được đánh giá theo giá thị trường tại địa phương 40.000 Kip/kg. Các nhà hàng, quán ăn, quán dịch vụ kinh doanh nhỏ... được đánh giá đền bù

150.000 kip/m2. Sau đây là bảng thông tin chi tiết:

Bảng 3.3: Thực hiện đền bù các tài sản bị thiệt hại của người dân


STT

Tên các loại tài sản sinh kế

Giá đền bù (KIP)

1

Đất nương

15.000.000/ha

2

Đất ruộng

40.000.000/ha

3

Vườn

2.000.000/ha

4

Bãi chăn nuôi

200.000/ha

5

Cây công nghiệp

200.000/cây

6

Cây ăn quả

100.000/cây

7

Nhà hàng

150.000/nhà

8

Vật gia súc

40.000/kg

9

Gia cầm

30.000/kg


Giá trị tiền năm 2016:

1.000 Kip = 2.800 VNĐ

Nguồn: Số liệu do tác giả thu thập, Bản Phonesavat, 2016 Ngoài việc đền bù trên, Nhà quản lý dự án có hỗ trợ thêm một số

khoản tiền cho dân như sau:

Bảng 3.4: Các khoản tiền người dân được nhận từ đền bù


STT

Các tộc người

Khoản tiền được nhận của 180 hộ dân/1.164 hộ

Thấp nhất

%

Cao nhất

%

Trung bình

%

1

Dân tộc Khơmú

20.000.000

30%

60.000.000

10%

30.000.000

60%

2

Dân tộc Lào

40.000.000

40%

120.000.000

10%

70.000.000

50%

3

Dân tộc Hmông

20.000.000

20%

80.000.000

10%

40.000.000

70%


Giá trịtiền:(Năm

2016)

1.000.000 Kip Lào = 2.800.000 VNĐ= 120 $


Nguồn: Số liệu do tác giả thu thập, Bản Phonesavat, 2016[19]

3.2.5. Thực hiện khôi phục sinh kếmới

Trong chiến lược khôi phục sinh kế, cán bộ dự án được thiết lập sinh kế cho khu tái định cư bằng nhiều hoạt động sinh kế khác nhau để đáp ứng môi trường sống mới. Cán bộ dự án đã thiết kế như: (1) Nghề trồng trọt mới là tập trung vào sản xuất các loại cây lương thực, đó là các loại rau, các loại hoa quả. Mục đích để đáp ứng nhu cầu lương thực hàng ngày và tạo nguồn thu nhập kinh tế thường xuyên cho người dân; (2) Nghề chăn nuôi là tập trung vào nuôicá, gà, vịt và lợn. Hai nghề này được cán bộ dự án đánh giá cao vì đó là những nghề dễ thực hiện đối với những người dân và phù hợp với khả năng, kinh nghiệm của các tộc người. Đồng thời, được phân tích là các loại lương thực này không thể thiếu được trong các bữa ăn hàng ngày của mỗi hộ gia đình, người mua sẽ là người dân tái định cư và người dân tại chỗ. Cho nên nó có thay thế cho việc sản xuất gạo. Ngoài ra, các nghề nông nghiệp trên, còn có các nghề phi nông nghiệp khác như: (1) Nghề thủ công nghiệp là tập trung vào nghề sản xuất vải, mục đích để người dân vừa tiết kiệm được kinh tế về mua quần áo và vừa sản xuất để thu nhập kinh tế; (2) Nghề dịch vụ là tập trung đào tạo cho người dân về sửa chữa xe máy, ô tô, sửa chữa nhà, sửa chữa đồ điện tử và dán sắt; (3) Nghề kinh doanh buôn bán là đào tạo dân sản xuất bánh mì, bánh kẹo và chế biến lương thực. Các nghề đào tạo mới này, theodự tínhcủa dự án sẽ tạo thu nhập kinh tế tăng gấp ba trong vòng 5 nămso với nền kinh tế cũ, tính từ năm 2011 đến năm 2016. Đồng thời, hứa hẹn sẽ có cung cấptoàn bộ các loại giống cây trồng, vật nuôi, hỗ trợ vốn và các chuyên gia hướng dẫn. Ngoài ra, sẽ hỗ trợ một số phương tiện cần thiết khác và hệ thống cung cấp nước tưới tiêu [19]. Sau đây là các nghề đào tạo mới để khôi phục sinh kế cho người dân tái định cư:

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/05/2022