thăm nom con, chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con nhưng lại không quy định về thời hạn hạn chế quyền thăm nom con. Sự thiếu sót này sẽ khiến cho việc áp dụng pháp luật về hạn chế quyền thăm nom con của Tòa án và các đương sự gặp nhiều khó khăn. Do đó, Luật Hôn nhân và gia đình cần bổ sung quy định về thời hạn hạn chế quyền thăm nom con là một khoảng thời gian nhất định, có thể từ một đến năm năm tùy vào mức độ ảnh hưởng của việc lạm dụng quyền thăm nom con.
Năm là, cũng giống như việc cản trở quyền thăm nom con, hành vi lạm dụng quyền thăm nom con để gây cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con của người trực tiếp nuôi con nên bị xử phạt vi phạm hành chính và trong trường hợp bên vi phạm đã bị xử phạt mà vẫn tái phạm thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con.
Ngoài ra, hiện nay phổ biến hành vi người không trực tiếp nuôi con đón con về chơi nhưng sau đó không chịu giao lại cho người có quyền nuôi con. Như trường hợp của chị Phan Thị Lợi (xã Phước Thạnh, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh). Tòa án nhân dân huyện Củ Chi xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn giữa chị Phan Thị Lợi và chồng chị. Về phần con chung, tòa ghi nhận sự thỏa thuận, giao cho chị tiếp tục nuôi con, chồng chị phải cấp dưỡng cho cháu. Theo tòa, bé còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ và cũng để ổn định tâm sinh lý nên cần thiết phải giao cho mẹ. Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực thi hành. Bốn năm sau ngày ly hôn mọi việc vẫn diễn ra êm đẹp, quan hệ giữa hai bên cũng không có biến cố. Nhưng chị Lợi cho biết đầu tháng 6-2012, như thường lệ, chị cho con về bên nội chơi nhưng gần một tuần chị quay lại đón con về thì bị nhà chồng cũ kiên quyết ngăn cản. Phía này bảo bây giờ cháu bé đã lớn nên họ muốn giữ ở lại để tiếp tục nuôi dưỡng. Họ cũng không cho chị gặp con trong khi cháu bé bày tỏ nguyện vọng chỉ muốn sống chung với mẹ.
Trong trường hợp này, chị Lợi sẽ vô cùng lúng túng khi giải quyết bởi lẽ, pháp luật Việt Nam hiện hành chưa có quy định điều chỉnh về vấn đề này. Có ý kiến cho rằng, trong trường hợp này, chồng chị Lợi có thể bị khởi tố hình sự về tội không chấp hành bản án. Tuy nhiên, bản án đã có hiệu lực hơn bốn năm và chồng chị đã thực hiện nghĩa vụ giao con, tức là bản án đã được thi hành vì vậy không có cơ sở để khởi tố anh về tội không chấp hành bản án. Ý kiến khác cho rằng hành vi này cấu thành tội chiếm đoạt trẻ em theo Điều 120 Bộ luật Hình sự năm 1999, tuy nhiên xử lý hành vi của chồng chị Lợi theo quy định tại Điều này là quá nặng vì đây là hành vi vi phạm thuộc chế độ hôn nhân và gia đình nên biện pháp xử lý hành chính cần được ưu tiên trước. Nhưng các văn bản pháp lý hiện hành chưa có quy định nào xử phạt hành chính đối với hành vi này. Đây là một lỗ hổng lớn của pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Do đó pháp luật Việt Nam cần bổ sung quy định xử phạt hành chính đối với hành vi chiếm giữ con của người không trực tiếp nuôi con mà không được sự đồng ý của người trực tiếp nuôi con. Đồng thời Bộ luật hình sự cũng nên bổ sung tội phạm này vào chương XV (chương các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình).
Thứ tư, về mức cấp dưỡng nuôi con.
Trong thực tiễn, hầu hết các trường hợp sau khi ly hôn vấn đề cấp dưỡng chưa bảo đảm quyền lợi của đứa con sau khi ly hôn. Chưa nói đến khoản tiền cấp dưỡng sau khi ly hôn là "nợ khó đòi" đối với một số trường hợp; cả trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng thực hiện việc cấp dưỡng theo đúng quy định của bản án mà tòa án đã tuyên thì cũng chưa đáp ứng được "nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng". Xin được viện dẫn một vài trường hợp cụ thể: Trường hợp thứ nhất: Anh L và chị X được tòa xử cho ly hôn, bản án tòa tuyên chị X được nuôi con; cháu B lúc đó 4 tuổi và buộc anh L cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 8 kg gạo tương đương với
30.000 đồng từ tháng 4/1993 đến khi cháu B tròn 18 tuổi. Trường hợp thứ hai: Anh K và chị C được tòa xử cho ly hôn, bản án tòa tuyên chị C được nuôi
con; cháu Y lúc đó 12 tuổi và buộc anh K cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng
150.000 đồng từ tháng 6/2002 đến khi cháu Y tròn 18 tuổi.
Quy định của Tòa án về mức cấp dưỡng là căn cứ vào mức thu nhập, giá cả thị trường tại thời điểm xét xử vụ án, khi ly hôn hầu hết con còn ở tuổi rất nhỏ có trường hợp 14; 15 năm sau mới đủ 18 tuổi. Mức cấp dưỡng lại "bất di bất dịch" trong khi thị trường đầy biến động, giá cả leo thang đến chóng mặt. Mức cấp dưỡng đã và đang trở thành gánh nặng cho những người trực tiếp nuôi dưỡng con sau khi ly hôn. Bên cạnh đó, trong rất nhiều trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Cơ quan thi hành án và cơ quan tổ chức trả tiền lương, tiền công lao động cho người có nghĩa vụ cấp dưỡng không thực hiện việc khấu trừ khoản cấp dưỡng để chuyển trả cho người được cấp dưỡng theo như quy định của khoản 2 -3 Điều 20 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP nêu trên thì gánh nặng lại chồng lên vai người trực tiếp nuôi dưỡng con sau khi ly hôn; có trường hợp chị L khi ly hôn Tòa án giao con nhỏ cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, con lớn ở với bố, khi người bố kết hôn đứa con lớn của chị "chạy luôn về ở với mẹ"... Chẳng có người mẹ nào từ chối con mình trong trường hợp đó. Sáu năm sau khi ly hôn chị không nhận được một đồng cấp dưỡng nào của chồng, chị làm đơn đến cơ quan thi hành án vẫn chưa được giải quyết, chị đến Ban chỉ đạo thi hành án dân sự thành phố nhờ can thiệp. Qua lời trình bày của chị: Từ khi ly hôn chị không nhận được khoản tiền cấp dưỡng nuôi con theo như bản án mà tòa án đã tuyên, đợt này chị phải cầu cứu vì sau khi bị mổ ruột thừa sức khỏe chị giảm sút, kinh tế kiệt quệ không đủ trang trải cuộc sống hàng ngày... điều đáng nói là chồng chị lại là người đang làm việc tại cơ quan bảo vệ pháp luật. Cũng phải đến "năm lần bảy lượt" gặp người có nghĩa vụ cấp dưỡng thuyết phục vận động, nhờ thủ trưởng cơ quan can thiệp theo như Điều 20 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP thì mới "đòi" được tiền cấp dưỡng. Hầu như rất ít các cơ quan, tổ chức thực hiện khoản 3 Điều 20 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP. Họ từ chối phối hợp với cơ quan tư pháp và né tránh việc khấu trừ lương theo như
Có thể bạn quan tâm!
- Các Biện Pháp Bảo Đảm Nghĩa Vụ Cấp Dưỡng Nuôi Con
- Hậu Quả Pháp Lý Của Việc Cha, Mẹ Bị Hạn Chế Quyền Đối Với Con
- Những Bất Cập Và Một Số Kiến Nghị Để Hoàn Thiện Pháp Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Về Bảo Vệ Quyền Và Lợi Ích Hợp Pháp Của Con Khi Cha Mẹ Ly Hôn
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 - 12
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con khi cha mẹ ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 - 13
Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.
quy định vì ngại va chạm, cho rằng đó không phải là nghĩa vụ của họ. Nên việc thực thi các quy định về cấp dưỡng còn khó khăn.
Do các quy định về cấp dưỡng còn chung chung, chưa có quy định cụ thể về mức cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn, tòa án căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng trường hợp ly hôn mà phán quyết mức cấp dưỡng. Tuy nhiên, chính vì chữ tùy vào "khả năng thực tế" của người được cấp dưỡng mà mức cấp dưỡng mỗi trường hợp ly hôn mỗi nơi một kiểu.
Đằng sau bản án ly hôn là số phận của mỗi con người, vì vậy để đảm bảo các "nhu cầu thiết yếu" trong cuộc sống để những đứa trẻ sau khi ly hôn "phát triển lành mạnh về thể chất và tinh thần" thì Nhà nước cần quy định cụ thể về mức cấp dưỡng. Theo đó, pháp luật nên quy định mức cấp dưỡng tính trên phần trăm thu nhập của người phải cấp dưỡng hoặc lấy mức tiền lương tối thiểu vào từng thời điểm làm định khung để quy định mức cấp dưỡng. Dù người phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng không phải là người làm công ăn lương đi chăng nữa thì con cái họ cũng cần phải được đảm bảo mức sống tối thiểu. Khi có sự thay đổi về mức lương thì căn cứ vào đó cơ quan thi hành án áp dụng vào từng thời điểm thi hành án thì mới có thể bảo đảm quyền lợi cho người được cấp dưỡng và tránh thiệt thòi cho người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
Thứ năm, về thời điểm cấp dưỡng nuôi con.
Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về việc cấp dưỡng của người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Vấn đề đặt ra là khi vợ chồng li hôn, cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con theo quy định tại điều luật này, mà cha mẹ không thỏa thuận được về thời điểm bắt đầu cấp dưỡng nuôi con thì Tòa án sẽ giải quyết như thế nào. Hiện nay, chưa có văn bản pháp luật nào quy định hoặc hướng dẫn về vấn đề này. Điều này đã dẫn đến việc Tòa án khi giải quyết vấn đề cấp dưỡng nuôi con chưa có sự thống nhất và chưa phù hợp, không đảm bảo quyền lợi của con trong rất nhiều trường hợp. Thực tiễn xét xử có Tòa cho rằng, thời điểm bắt đầu cấp dưỡng nuôi con là
ngày tuyên án, có Tòa lại tuyên thời điểm bắt đầu cấp dưỡng nuôi con là ngày bản án có hiệu lực pháp luật, hoặc không tuyên là thời điểm nào thì người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con phải thực hiện nghĩa vụ đó.
Có nhiều ý kiến cho rằng, việc quy định thời điểm bắt đầu cấp dưỡng nuôi con là không cần thiết bởi cấp dưỡng là yếu tố xuất phát từ tình cảm, cha mẹ luôn muốn con mình có cuộc sống đầy đủ vì vậy mà họ nghĩ không cần có quy định thì họ cũng tự nguyện, tự giác thực hiện trách nhiệm của mình. Nhưng thực tế, mấy năm gần đây đã chứng minh điều ngược lại. Sau khi li hôn, người cha hoặc mẹ đã không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của mình phải đến khi cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định cưỡng chế, buộc họ phải thực hiện trách nhiệm của mình lúc ấy việc cấp dưỡng mới được thực hiện, thậm chí nhiều trường hợp vẫn trốn tránh. Việc cha hoặc mẹ không thực hiện trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con của mình có thể do một số nguyên nhân chủ quan và khách quan.
Vì vậy, Luật Hôn nhân và gia đình cùng các văn bản hướng dẫn cần đưa ra các quy định cụ thể hơn về thời điểm bắt đầu cấp dưỡng. Đây sẽ là căn cứ để các Tòa án trong quá trình xét xử đưa ra các phán quyết chính xác về thời điểm bắt đầu cấp dưỡng nuôi con nhằm bảo vệ quyền lợi của con nhất là trong trường hợp cha hoặc mẹ không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Cơ quan thi hành án dân sự cũng có cơ sở, căn cứ xác định để buộc người phải cấp dưỡng thi hành nghĩa vụ của mình. Cụ thể trong văn bản hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình cần quy định cụ thể như sau:
Thời điểm cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con khi li hôn phải cấp dưỡng nuôi con là ngày người này không sống chung với con và không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng con, nếu không xác định được ngày này thì thời điểm cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con khi ly hôn phải cấp dưỡng nuôi con là ngày bản án sơ thẩm có hiệu lực, trong trường hợp các bên không thoả conận được về việc cấp dưỡng nuôi con.
Thứ sáu, việc tạm ngừng cấp dưỡng nuôi con
Tại Điều 54 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
... Các bên có thể thỏa thuận thay đổi phương thức cấp dưỡng, tạm ngừng cấp dưỡng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết [28].
Theo như quy định trên thì khi vợ hoặc chồng gặp khó khăn về kinh tế thì có thể thỏa thuận với nhau, hoặc nhờ Tòa án giải quyết tạm ngừng cấp dưỡng. Quy định này của pháp luật hôn nhân và gia đình với mục đích nhằm đảm bảo cho nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ cho con có tính khả thi hơn. Cuộc sống thường không như mong muốn của con người, không ai có thể nói trước và chắc chắn rằng họ sẽ không bao giờ gặp bất cứ khó khăn nào trong cuộc sống. Khó khăn mà họ gặp phải có thể do bản thân họ tạo ra hoặc cũng có thể do yếu tố khách quan đem lại. Ví dụ: anh X đang làm ăn phát đạt với trang trại nuôi ba ba nhưng không may lũ lụt nặng nề khiến trang trại ba ba của anh mất trắng và anh lâm vào hoàn cảnh khó khăn về kinh tế. Nhưng việc tạm ngừng cấp dưỡng lại ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người được cấp dưỡng, bởi lẽ việc cấp dưỡng được tính toán trên cơ sở nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng. Nếu việc tạm ngừng cấp dưỡng diễn ra trong khi người trực tiếp nuôi con không đủ khả năng tài chính để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của con thì cuộc sống của người con đó sẽ bị ảnh hưởng nặng nề. Vì vậy việc tạm dừng cấp dưỡng nuôi con chỉ nên được tạm ngừng trong trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng kinh tế khó khăn vì những lý do chính đáng khách quan làm cho họ không có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Lý do khách quan đó có thể là lũ lụt, hạn hán, thiên tai, hỏa họa… hay người có nghĩa vụ cấp dưỡng mắc bệnh hiểm nghèo, mất khả năng lao động… Để đảm bảo quyền lợi cho con, Luật cũng nên quy định cụ thể về thời
gian tạm ngừng cấp dưỡng là đến khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng khắc phục được tình trạng kinh tế do lý do khách quan đó gây ra. Mặt khác, pháp luật nên có quy định về việc cấp dưỡng bổ sung một khoản tài sản tương đương với mức cấp dưỡng trong khoảng thời gian tạm ngừng cấp dưỡng. Ví dụ anh X có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung sau khi ly hôn là 1.000.000 đồng/tháng. Do không may lũ lụt nặng nề khiến trang trại ba ba của anh mất trắng và anh lâm vào hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, anh X có yêu cầu Tòa án huyện Y giải quyết về việc tạm ngừng cấp dưỡng. Tòa án huyện Y sau khi xem xét yêu cầu của anh đã ra quyết định cho anh X được tạm ngừng cấp dưỡng trong thời gian sáu tháng từ 15/4/2012 đến 15/10/2012. Như vậy sau 15/10/2012 anh X phải cấp dưỡng bổ sung khoản tiền là: 1.000.000 đồng x 6 = 6.000.000 đồng. Những quy định chi tiết và cụ thể này sẽ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của con được bảo vệ trọn vẹn hơn trên thực tế.
Thứ bảy, về hạn chế quyền của cha mẹ đối với con sau khi ly hôn.
Nhìn chung các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành về việc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con khá chi tiết và cụ thể, đảm bảo quyền và lợi ích của các con được bảo vệ một cách toàn diện. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là bên cạnh quyền và nghĩa vụ đối với con chưa thành niên thì cha mẹ còn có nghĩa vụ và quyền đối với con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Trong trường hợp cha, mẹ đã bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm sức khỏe, nhân phẩm, danh dự hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; phá tán tài sản; có lối sống đồi trụy, xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội đối với con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì họ có bị hạn chế quyền đối với những người con này không?
Để các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình được hoàn thiện hơn, đảm bảo tính công bằng và nhân đạo của pháp luật, thiết nghĩ cần bổ
sung quy định về hạn chế quyền của cha mẹ đối với con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động bên cạnh việc hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên.
3.2.2. Về công tác áp dụng pháp luật vào xét xử
Bên cạnh những khó khăn khách quan do quy phạm chung chung, chưa chi tiết, một số cán bộ thiếu kiến thức về pháp luật và kiến thức về xã hội, trong một số trường hợp đã không áp dụng luật một cách chính xác, toàn diện, quyền lợi của người con vẫn chưa được đảm bảo.
+ Việc chia tài sản nhiều khi vẫn chưa chú ý tới vấn đề ai nuôi con để ưu tiên người đó. Mặc dù pháp luật đã có quy định về vấn đề này gián tiếp qua quy định về việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn dựa trên nguyên tắc "bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình" [28, điểm b Khoản 2 Điều 95]. Khi chia tài sản thì chỉ có hai bên là vợ chồng nhưng vẫn phải chú ý đến những người con không thể tự lo được cho bản thân mình vì cuộc sống của con cũng phụ thuộc nhiều vào phần tài sản mà người trực tiếp nuôi con được chia. Có thể hiểu, khi chia tài sản chung của vợ chồng, chú ý đến quyền lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự tức là phải chú ý đến quyền của người trực tiếp nuôi con. Tuy nhiên, một số Thẩm phán vẫn có sự tách bạch giữa việc chia tài sản chung của vợ chồng với việc đảm bảo quyền lợi của con khi cha mẹ ly hôn. Điều đó cũng ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của con sau khi cha mẹ ly hôn.
+ Vấn đề giao con cho ai nuôi nhiều khi chưa được nhìn nhận một cách toàn diện. Trên thực tế, người mẹ thường giành được quyền trực tiếp nuôi con bởi vì mẹ thường là người quan tâm, chăm sóc, gần gũi với con hơn người cha. Điều đó nhiều khi đã trở thành một tập quán định hình trong việc giao con cho ai nuôi: Tòa án thường nghiêng về phía người mẹ. Khi có tranh