Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn thương mại bằng biện pháp dân sự theo pháp luật Việt Nam - 2

hữu công nghiệp liên quan đến các chỉ dẫn thương mại là nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý.

Xét đến cùng, quyền sở hữu trí tuệ là quyền đối với một loại tài sản (dù là tài sản đặc biệt – không hữu hình) và vì thế nó được đối xử như các quyền của các loại tài sản khác. Do vậy, để bảo vệ các đối tượng quyền của quyền sở hữu, cụ thể là quyền sở hữu công nghiệp, có nhiều biện pháp khác nhau, nhưng biện pháp dân sự có vai trò quan trọng và cơ bản hơn cả. Tuy vậy, một thực tế hiện nay ở Việt Nam là khi xảy ra hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, biện pháp được áp dụng trước tiên không phải là biện pháp dân sự như những nước khác, mà là biện pháp hành chính. Đây là điều bất hợp lý, và chứng tỏ pháp luật về bảo về quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự còn hạn chế, chưa đầy đủ, tồn tại nhiều bất cập. Để phù hợp với tính chất và nội dung của quan hệ pháp luật, phù hợp với thông lệ quốc tế thì chúng ta cần sớm tìm ra những nguyên nhân và lý giải nguyên nhân đó.

Nhận thức được vai trò quan trọng của việc bảo vệ QSHCN đối với chỉ dẫn thương mại bằng biện pháp dân sự, tác giả chọn đề tài “Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn thương mại bằng biện pháp dân sự theo pháp luật Việt Namlà đề tài luận văn tốt nghiệp.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trước khi Bộ luật Dân sự năm 1995 ra đời, bảo vệ QSHTT nói chung và bảo vệ QSHCN đối với chỉ dẫn thương mại nói riêng vẫn chưa thực sự được quan tâm đúng mức ở Việt Nam. Vì vậy, liên quan đến vấn đề này có rất ít các công trình nghiên cứu, sách, báo. Vài năm trở lại đây, đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập WTO, vai trò của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ mới được đề cao, Chính phủ Việt Nam cũng thừa nhận vai trò của việc bảo hộ quyền SHTT trong việc phát triển khoa học kỹ thuật hiện đại, khuyến khích hoạt động sáng tạo và phát minh phục vụ phát triển kinh tế, chính vì vậy cũng có

khá nhiều những bài viết liên quan đến việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ như “Đổi mới và hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ”, Luận án tiến sỹ của tác giả Lê Xuân Thảo; “Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Văn Luật; “Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ” của tác giả Lê Xuân Thảo biên soạn, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2005; “Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp bằng biện pháp dân sự”, Luận văn thạc sỹ của tác giả Phạm Văn Toàn; “Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý theo pháp luật Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ của tác giả Ninh Thị Thanh Thủy; “Nâng cao vai trò của tòa án trong việc giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ” của tác giả Nguyễn Thị Quế Anh…

Các công trình nghiên cứu trên tuy có đề cập đến những biện pháp bảo vệ QSHCN bằng biện pháp dân sự, nhưng chưa có nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu về chỉ dẫn thương mại bao gồm nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, đồng thời so sánh và phân tích được sự khác biệt giữa các đối tượng bảo hộ này.

3. Mục đích nghiên cứu

Bảo vệ QSHCN có thể được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau nhằm giải quyết các vấn đề trong mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước, cơ quan tư pháp, giữa các chủ thể QSHCN. Thông qua luận văn này, tác giả mong muốn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và những bất cập còn tồn tại trong quá trình giải quyết mối liên hệ pháp luật trên. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ QSHCN đối với chỉ dẫn thương mại bằng biện pháp dân sự.

4. Phạm vi nghiên cứu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

Chỉ dẫn thương mại theo quy định tại khoản 2 Điều 130 Luật sở hữu trí tuệ 2005 bao gồm nhãn hiệu, tên thương mại, biểu tượng kinh doanh, khẩu

hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì hàng hóa và nhãn hàng hóa. Nhưng trong luận văn này, người viết chỉ tập trung nghiên cứu việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý bằng biện pháp dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện nay. Đồng thời có sự liên hệ, đối chiếu, phân tích, so sánh với các quy định tương tự trong pháp luật của một số quốc gia và các Điều ước quốc tế. Từ những phân tích về mặt lý luận, luận văn cũng nêu ra thực trạng về việc bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn thương mại bằng biện pháp dân sự.

Bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn thương mại bằng biện pháp dân sự theo pháp luật Việt Nam - 2

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Tác giả đã dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, trên cơ sở của khoa học chuyên ngành về SHTT. Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử như phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp kết hợp giữa lý luận với thực tiễn. Ngoài ra trong quá trình nghiên cứu đề tài, những phương pháp khoa học như: So sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê cũng được sử dụng để giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần cung cấp những thông tin mang tính lý luận và thực tiễn về bảo vệ QSHCN đối với chỉ dẫn thương mại bằng biện pháp dân sự theo pháp luật Việt Nam. Luận văn có ý nghĩa góp phần tăng cường việc giải quyết tranh chấp QSHCN đối với chỉ dẫn thương mại bằng biện pháp dân sự, đổi mới và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ QSHCN tại Việt Nam hiện nay. Tác giả mong muốn luận văn có thể cung cấp những hiểu biết sâu hơn cho chủ thể quyền về biện pháp dân sự, cũng như những ưu điểm khi áp dụng việc bảo vệ QSHCN đối với chỉ dẫn thương mại bằng biện pháp dân sự. Ngoài ra, từ việc trình bày những bất cập còn tồn tại trong thực tiễn xử lý hành vi xâm phạm QSHCN đối với chỉ dẫn thương mại,

tác giả đã đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp của Tòa án.

7. Bố cục luận văn

Ngoài các phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm có 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn thương mại bằng biện pháp dân sự.

Chương 2: Quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn thương mại bằng biện pháp dân sự.

Chương 3: Thực trạng bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn thương mại bằng biện pháp dân sự ở Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI CHỈ DẪN THƯƠNG MẠI BẰNG BIỆN PHÁP DÂN SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm quyền sở hữu công nghiệp

1.1.1. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp

Ngày nay, khoa học, kĩ thuật, công nghệ đã trở thành một bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất có tính chất quyết định đến năng suất lao động. Theo đó, quan hệ sở hữu phát triển lên một đỉnh cao mới, dẫn đến sự ra đời của một quan hệ sở hữu đặc biệt là Sở hữu trí tuệ (SHTT). Nếu như quyền sở hữu tài sản bao gồm: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt của chủ sở hữu thì quyền sở hữu trí tuệ (QSHTT) có nội hàm rộng hơn, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền đối với giống cây trồng và quyền sở hữu công nghiệp.

Theo Luật Sở hữu trí tuệ thì QSHTT được định nghĩa như sau: “Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng” [18, Điều 4]

Theo pháp luật Việt Nam, QSHTT là chế định trong luật dân sự, là lĩnh vực thuộc quan hệ pháp luật dân sự, trong đó các yếu tố cấu thành bao gồm chủ thể, khách thể và nội dung. QSHTT là một phạm trù pháp lý trong quyền sở hữu nói chung. Do vậy, giống như các quyền dân sự khác, QSHTT cũng bao gồm các nhóm quy phạm liên quan đến các hình thức sở hữu, căn cứ phát sinh, chấm dứt quyền sở hữu, cách thức, biện pháp chuyển quyền sở hữu và các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu. Đối với quyền sở hữu thông thường, chủ sở hữu có đủ ba quyền: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Trong khi đó, QSHTT không quy định gì về quyền chiếm hữu. Điều này phát

sinh từ đặc tính vô hình của các đối tượng SHTT. Vì vậy, quyền năng quan trọng nhất của QSHTT là quyền sử dụng các đối tượng SHTT.

Trong QSHTT thì QSHCN là quyền sở hữu các tác phẩm sáng tạo trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại. Hiểu theo nghĩa khách quan, QSHCN là pháp luật về SHCN hay nói cách khác là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh sau khi con người sáng tạo ra sản phẩm trí tuệ và được pháp luật coi là các đối tượng SHCN. Hiểu theo nghĩa chủ quan thì QSHCN là quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân đối với các đối tượng SHCN. Pháp luật Việt Nam hiện hành đã tập hợp và đưa ra phạm vi QSHCN khá rộng so với trước đây, thể hiện trong khái niệm tương đối khái quát về QSHCN quy định tại Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005:

Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh. [18, Điều 4]

QSHCN được xác lập như sau: QSHCN đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bản bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Riêng đối với tên thương mại và bí mật kinh doanh, QSHCN được xác lập một cách tự động, không cần phải trải qua các trình tự, thủ tục xin xác lập quyền. Đối với tên thương mại, QSHCN được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp pháp tên thương mại đó. Đối với bí mật kinh doanh, QSHCN được xác lập trên cơ sở có được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí

mật kinh doanh đó. Đối với quyền chống cạnh tranh không lành mạnh thì được xác lập trên cơ sở hoạt động cạnh tranh trong kinh doanh. [18, Điều 6]

Xuất phát từ giá trị to lớn cũng như thuộc tính vô hình, khả năng chia sẻ và tính xã hội rất cao của các đối tượng thuộc QSHCN nên các hành vi vi phạm QSHCN ngày càng diễn ra tinh vi, gây thiệt hại to lớn cho chủ sở hữu quyền cũng như tác động tiêu cực tới sự phát triển chung về kinh tế, khoa học kĩ thuật của quốc gia và nhân loại. Chính vì vậy, việc Nhà nước quy định về SHTT nói chung và QSHCN nói riêng nhằm bảo vệ quyền của những người hoạt động trong lĩnh vực đặc biệt là chính sách mang tính toàn cầu, có ý nghĩa xã hội và kinh tế quan trọng.

1.1.2. Đặc điểm quyền sở hữu công nghiệp

QSHCN là một phần của quyền SHTT nên QSHCN mang các đặc trưng của quyền SHTT, ngoài ra, trong sự so sánh với quyền tác giả thì QSHCN có những đặc điểm cơ bản sau đây:

Đối tượng của QSHCN luôn gắn liền với hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Các đối tượng của QSHCN đều mang tính chất hàng hóa, phục vụ quá trình kinh doanh để tạo ra lợi nhuận. Một trong những tiêu chí để phân chia kết quả của hoạt động sáng tạo trí tuệ thành quyền tác giả hay QSHCN chính là căn cứ vào tính hữu ích, khả dụng của chúng. Nếu đối tượng của quyền tác giả chủ yếu được áp dụng trong các hoạt động giải trí tinh thần thì các đối tượng của QSHCN lại được ứng dụng trong các hoạt đông sản xuất, kinh doanh thương mại. Nói cách khác, bảo hộ QSHCN là bảo hộ về nội dung, còn bảo hộ quyền tác giả là bảo hộ về hình thức. Chính vì vậy mà một trong những điều kiện để được bảo hộ của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp và thiết kế bố trí là chúng phải có khả năng áp dụng công nghiệp nhằm tạo ra các sản phẩm có giá trị cho đời sống con người. Còn đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, bí mật kinh doanh phải chứa đựng các chỉ dẫn

thương mại, nhằm phân biệt chủ sở hữu QSHCN với các chủ thể khác, giúp nhà sản xuất hay cung cấp dịch vụ tạo ra ưu thế cạnh tranh trong thị trường, đẩy mạnh quá trình lưu thông hàng hóa, dịch vụ đồng thời cũng giúp người tiêu dùng dễ dàng lựa chọn hàng phù hợp với yêu cầu cũng như chất lượng mà mình mong muốn.

QSHCN được bảo hộ thông qua thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền

Đây là đặc trưng cơ bản của QSHCN so với quyền tác giả. Nếu như quyền tác giả là quyền tự nhiên, xuất hiện khi tác giả sáng tác, làm ra các tác phẩm, việc đăng ký quyền tác giả chỉ mang tính chất khuyến khích, thì QSHCN chỉ được pháp luật bảo hộ khi chúng được cơ quan nhà nước chính thức cấp văn bằng bảo hộ.

QSHCN đối với sáng chế, thiết kế bố trí, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý được xác lập trên cơ sở quyết định của cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu công nghiệp cho người nộp đơn đăng kí các đối tượng đó. Riêng với tên thương mại và bí mật kinh doanh, QSHCN được xác lập một cách tự động, không cần trải qua các trình tự, thủ tục xin xác lập quyền. QSHCN đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở thực tiễn sử dụng hợp pháp tên thương mại tương ứng với khu vực và lĩnh vực kinh doanh. QSHCN đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở đầu tư tài chính, trí tuệ hay bất kì cách thức hợp pháp nào để tìm ra, tạo ra hoặc đạt được thông tin và bảo mật thông tin tạo thành bí mật kinh doanh đó.

QSHCN được bảo hộ theo giới hạn không gian và thời gian

Quyền sở hữu đối với tài sản thông thường được bảo hộ vô thời hạn và chỉ chấm dứt khi có các căn cứ chấm dứt quyền sở hữu được ghi nhận trong các văn bản pháp luật hoặc khi tài sản bị tiêu huỷ. Quyền sở hữu đối với tài sản thông thường không bị giới hạn về mặt không gian. Trong khi đó, quyền

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 22/12/2022