Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong thi hành pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam - 2

động quản lý thuế, Nhà nước đảm bảo thực hiện chính sách thuế GTGT một cách hài hòa.

Chính vì thế, vừa để tạo nguồn thu cho ngân sách vừa đảm bảo quyền, lợi ích của doanh nghiệp nộp thuế thì việc nghiên cứu văn bản quy phạm pháp luật điều chính về thuế GTGT cũng như cơ chế thực hiện Luật thuế GTGT có ý nghĩa quan trọng trong đánh giá thực trạng và những giải pháp để hoàn thiện pháp luật thuế GTGT. Xuất phát từ những điều đó tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài "Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong thi hành pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam".

2. Tình hình nghiên cứu


Thời gian qua, thuế GTGT thu hút được sự quan tâm đặc biệt từ các nhà nghiên cứu luật, do đó đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học công bố trong lĩnh vực thuế: các công trình nghiên cứu về thuế GTGT, về pháp luật quản lý thuế, về luật thuế GTGT nhằm hoàn thiện pháp luật thuế ở nước ta. Các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung nghiên cứu, đánh giá dựa trên góc độ quản lý Nhà nước nhằm hoàn thiện các quy định về thuế GTGT, tăng cường hiệu quả chức năng quản lý của cơ quan thuế. Tình trạng này bắt nguồn từ việc nghiên cứu trên cơ sở luật thực định chưa có sự tách biệt giữa hai bộ phận pháp luật là pháp luật quy định nội dung sắc thuế GTGT và Luật Quản lý thuế. Hơn nữa, mô hình quản lý thuế ở Việt Nam mới chuyển mô hình quản lý chuyên quản sang mô hình quản lý chủ yếu theo chức năng, kết hợp quản lý theo đối tượng và người nộp thuế (NNT) được đặt ở vị trí trung tâm trong pháp luật thuế. Vì vậy, luận văn "Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong thi hành pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam" là một đề tài độc lập không có sự lặp lại. Luận văn đi sâu vào nghiên cứu để tìm ra những tồn tại, hạn chế, đề xuất giải pháp khắc phục cho vấn đề "bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp".

3. Mục đích, lý do chọn đề tài

Vấn đề bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong thi hành pháp luật thuế GTGT được nghiên cứu theo mục đích sau:

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thuế GTGT và vấn đề bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong pháp luật thuế GTGT.

- Nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật hiện hành về thuế GTGT và pháp luật bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong pháp luật thuế GTGT.

- Thực tiễn áp dụng các quy định của luật, từ đó tìm ra những vấn đề tồn tại của pháp luật thuế GTGT trong việc bảo vệ quyền lợi ích của doanh nghiệp.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.

- Đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định trong pháp luật thuế GTGT nhằm bảo vệ một cách có hiệu quả hơn quyền lợi của doanh nghiệp góp phần tăng tính khả thi của pháp luật thuế GTGT.

4. Phạm vi nghiên cứu đề tài

Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong thi hành pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam - 2

Bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong thi hành pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam được nghiên cứu theo hai phạm vi:

4.1. Về không gian

Vấn đề bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong pháp luật thuế GTGT diễn ra trên phạm vi toàn quốc, theo từng khu vực và đặc biệt ở những khu vực trung tâm như: Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí minh… Bên cạnh đó, luận văn nghiên cứu tình hình bảo về quyền lợi doanh nghiệp trong pháp luật thuế GTGT ở nhiều quốc gia phát triển đã đi trước mở đường cho Luật Thuế GTGT áp dụng trên phạm vi toàn cầu như Anh, Hàn Quốc, Đức, Nhật… Như vậy, chúng ta sẽ có cái nhìn toàn cảnh về tình hình bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong pháp luật thuế GTGT theo pháp luật Việt Nam.

4.2. Về thời gian

Nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp trong pháp luật thuế GTGT theo Luật Thuế GTGT năm 2008, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thuế GTGT năm 2013, Luật Quản lý thuế năm 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế năm 2012.

5. Phương pháp nghiên cứu đề tài

Luận văn nghiên cứu về bảo về quyền lợi của doanh nghiệp trong thi hành pháp luật thuế GTGT chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: sưu tầm tài liệu, phân tích tài liệu, tổng hợp, so sánh, thống kê số liệu. Trên cơ sở phân tích các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn trong các quy định pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam trong bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp. Luận văn trình bày một cách trung thực những ưu và nhược điểm của pháp luật hiện hành và quyền lợi của doanh nghiệp khi thi hành pháp luật thuế GTGT, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật thuế GTGT nhằm cân bằng giữa lợi ích của doanh nghiệp nộp thuế và Nhà nước, bảo vệ tối đa nhất quyền lợi của doanh nghiệp nộp thuế.

6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 2 chương:

Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về thuế giá trị gia tăng, pháp luật thuế giá trị gia tăng và quyền lợi của doanh nghiệp trong pháp luật thuế giá trị gia tăng.

Chương 2: Thực trạng thi hành pháp luật thuế giá trị gia tăng về quyền lợi của doanh nghiệp và một số kiến nghị hoàn thiện.

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG, PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ QUYỀN LỢI CỦA

DOANH NGHIỆP TRONG PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG


1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ PHÁP LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm thuế giá trị gia tăng

1.1.1.1. Khái niệm thuế giá trị gia tăng

Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng (dưới đây viết tắt là VAT - Value Added Tax). VAT là loại thuế gián thu, đã được nhiều nước áp dụng để thay cho thuế doanh thu. Được gọi là thuế VAT vì thuế chỉ đánh trên phần giá trị tăng thêm qua mỗi khâu của quá trình sản xuất - kinh doanh, và tổng số thuế thu được ở mỗi khâu bằng chính số thuế tính trên giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Về bản chất, thuế VAT do các nhà sản xuất kinh doanh nộp hộ người tiêu dùng thông qua việc tính gộp thuế này vào giá bán mà người tiêu dùng phải thanh toán bằng chính số thuế tính trên giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng. Theo Luật thuế GTGT số 13/2008/QH12, thuế GTGT được định nghĩa như sau: "Thuế giá trị gia tăng là thuế thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình tư sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng" [29].

1.1.1.2. Đặc điểm thuế giá trị gia tăng

Thứ nhất, thuế GTGT có đối tượng chịu thuế rất rộng. Mọi đối tượng tồn tại trong xã hội cho dù là tổ chức hay cá nhân, là người nghèo hay người có thu nhập cao đều phải chi trả thu nhập của mình để thụ hưởng kết quả sản xuất kinh doanh tạo ra cho nền kinh tế - xã hội. Điều này có nghĩa, mọi đối

tượng trong xã hội đều là chủ thể chịu thuế, chủ thể thực tế phải trả quan trọng tới sự tác động của pháp luật thuế GTGT, đối với đời sống kinh tế, xã hội. Việc đánh thuế đối với mọi đối tượng trên phạm vi lãnh thổ thể hiện rõ nét sự công bằng của thuế đồng thời thể hiện thái độ của nhà nước đối với các loại tiêu dùng trong xã hội [39, tr. 149].

Thứ hai, thuế GTGT tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ. Việc đánh thuế chỉ trên phần giá trị tăng thêm mà không phải đối với toàn bộ giá trị hàng hóa dịch vụ làm cho số thuế GTGT áp dụng trong mỗi khâu của quá trình lưu thông không gây ra những đột biến về giá cả cho người tiêu dùng. Đặc điểm này của thuế GTGT còn yêu cầu pháp luật điều chỉnh phải tìm ra cách thức, phương thức phù hợp, có tính khả thi để xác định chính xác phần giá trị tăng thêm làm căn cứ tính thuế.

Thứ ba, nếu dựa trên giá mua cuối cùng của hàng hóa dịch vụ, số thuế GTGT phải nộp không thay đổi phụ thuộc vào các giai đoạn lưu thông khác nhau. Đánh thuế ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa ở trong nước, khâu nhập khẩu và lưu thông hàng nhập khẩu nhưng cơ sở xác định số thuế phải nộp chỉ là phần giá trị mới tăng thêm của khâu sau so với khâu trước nên nếu coi giá thanh toán tính đến khi người tiêu dùng thụ hưởng hàng hóa dịch vụ đã xác định trước và không thay đổi các phần giá trị hàng hóa dịch vụ có bị chia nhỏ và đánh thuế, tổng số thuế GTGT phải nộp qua các khâu chính là số thuế cuối cùng tính trên tổng giá trị hàng hóa dịch vụ mà người tiêu dùng phải chịu. Đây vừa là đặc điểm vừa là ưu việt của thuế GTGT so với thuế hàng hóa dịch vụ thông thường mà Việt Nam và nhiều quốc giá khác đã áp dụng trong giai đoạn trước đây [39, tr. 149].

1.1.2. Vai trò của thuế giá trị gia tăng và pháp luật thuế giá trị gia tăng

1.1.2.1. Vai trò của thuế giá trị gia tăng

- Khắc phục được nhược điểm trùng lắp "Thuế thu trên thuế" nên góp phần khuyến khích chuyên môn hóa, hợp tác hóa để nâng cao năng suất chất

lượng, hạ giá thành sản phẩm, phù hợp với nền kinh tế sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường.

- Thuế GTGT được áp dụng rộng rãi với mọi tổ chức và cá nhân có tiêu dùng sản phẩm, hàng hóa hoặc được cung ứng dịch vụ, thuế GTGT chỉ tính vào phần giá trị tăng thêm, không tính vào vốn nên thuế GTGT không những đảm bảo được nguồn thu cho NSNN tương ứng với số thuế doanh thu trước đây mà còn góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó để tăng thu cho NSNN. Thuế GTGT hàng năm ở các nước thuộc OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế) chiếm 18,7%. Ở Việt Nam, thuế GTGT đóng góp vào NSNN liên tục tăng, đem lại 742.650 tỷ đồng, chiếm 26,08% trong tổng nguồn thu về thuế trong năm 2012 [15], Có thể thấy, thuế GTGT đóng góp phần quan trọng với tỷ lệ lớn nguồn thuế nộp vào NSNN hàng năm. Đối với nhận thức của người nộp sắc thuế này thì đây là một sắc thuế hấp dẫn hơn các sắc thuế khác vì bản chất của nó: NNT biết những gì họ phải trả và nếu họ không mua hàng hóa thì họ không phải trả tiền thuế. Do có ít tác động tiêu cực đối với tâm lý của NNT nên số thuế GTGT thu được cũng chiếm tỷ lệ cao và tốt cho tăng trưởng kinh tế hơn so với thuế khác (điển hình như thuế thu nhập).

- Thuế GTGT thu cả đối với hàng hóa nhập khẩu tạo sự bình đẳng trong kinh doanh giữa các doanh nghiệp nhập khẩu và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước.

- Khi áp dụng Luật thuế GTGT đã tạo cho doanh nghiệp cơ chế tự kiểm tra, hạn chế việc kinh doanh trốn thuế. Thuế GTGT đã góp phần vào việc hoàn thiện hệ thống chính sách thuế ở nước ta phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với kinh tế thị trường, tạo điều kiện để tham gia mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, nhanh chóng hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới.

Tuy nhiên, bên cạnh những điểm lợi của thuế GTGT thì thuế GTGT cũng có mặt hạn chế nhất định bởi chi phí về quản lý thu thuế GTGT rất tốn

kém. Thuế GTGT có ít thuế suất nên tính chất điều tiết của thuế không cao. Người tiêu dùng có thu nhập cao hay thấp thường phải chịu thuế như nhau. Thuế GTGT không đảm bảo yêu cầu công bằng trong chính sách động viên giữa người giàu và người nghèo.

1.1.2.2. Vai trò của pháp luật thuế giá trị gia tăng

Thuế GTGT có tầm quan trọng như vậy nên việc pháp điển hóa thuế GTGT càng có ý nghĩa sâu sắc. Hệ thống thuế của một quốc gia có nhiều sắc thuế khác nhau mà thuế GTGT là một trong số đó. Phụ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội ở mỗi nước và trình độ lập pháp, sự lựa chọn của các nhà làm luật khác nhau mà việc xây dựng pháp luật thuế lại khác nhau. Có nước quy định tất cả các sắc thuế trong một Bộ luật, trong đó vừa có quy định về nội dung điều chỉnh đối với các đối tượng chịu thuế vừa quy định về trình tự, thủ tục thực hiện và cơ chế quản lý, xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp đối với sắc thuế đó. Có nước lại có một đạo luật riêng về nội dung từng sắc thuế và đạo luật riêng về quản lý thuế. Tuy nhiên nhìn vào bản chất khi doanh nghiệp thực thi một sắc thuế cụ thể thì doanh nghiệp cần thực hiện theo nội dung các quy định của sắc thuế cũng như các quy định về trình tự để thực hiện sắc thuế đó. Vì vậy, dù pháp luật thuế GTGT dù được xây dựng theo hình thức nào thì pháp luật thuế GTGT cũng gồm hai bộ phận: luật nội dung là luật thuế GTGT và luật hình thức là luật quản lý thuế.

* Vai trò của Luật Thuế GTGT

Luật thuế GTGT khuyến khích việc sản xuất hàng hoá xuất khẩu và xuất khẩu thay vì luật thuế cũ khuyến khích sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu, đặc biệt Luật thuế GTGT đã khuyến khích sản xuất, kinh doanh những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh: nông sản, lâm sản, hải sản, thủ công mỹ nghệ.

Đặc biệt Luật thuế GTGT góp phần đến công tác quản lý của doanh nghiệp tạo điều kiện cho cơ quan Nhà nước kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, tăng cường công tác hạch toán, kế toán và thúc

đẩy việc mua bán hoá đơn GTGT ở các doanh nghiệp. Do yêu cầu của việc kê khai thuế GTGT, khấu trừ thuế GTGT đầu vào, tính đúng thu nhập của doanh nghiệp nên những người làm công tác quản lý kinh doanh đã bắt đầu trú trọng đến công tác mở sổ kế toán, ghi chép, quản lý và sử dụng hoá đơn chứng từ. Thông qua việc chấp hành công tác kế toán, hoá đơn chứng từ của các doanh nghiệp, qua việc kê khai thuế, hoàn thuế, quyết toán thuế đã giúp cơ quan chức năng và cơ quan thuế từng bước nắm được tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp.

Luật thuế GTGT có tác động trực tiếp đến doanh nghiệp và được xem như là một trong những giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, kích thích nền kinh. góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hoá và đẩy mạnh xuất khẩu. Quá trình triển khai thực hiện Luật thuế GTGT đã đi vào cuộc sống, tác động tích cực đến nhiều mặt kinh tế - xã hội của đất nước và đã đạt được những mục tiêu đề ra khi ban hành luật là góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, bảo đảm nguồn thu cho NSNN.

* Vai trò của Luật Quản lý thuế

- Luật quản lý thuế là căn cứ để cơ quan nhà nước xác định rõ hơn vai trò, trách nhiệm tổ chức, cá nhân có liên quan trong quản lý thuế; trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ, tính chủ động của NNT được đề cao thông qua cơ chế tự tính, tự khai, tự nộp thuế, đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế.

- Luật quản lý thuế đã góp phần thay đổi cơ bản diện mạo công tác thu thuế, quản lý của cơ quan thuế, chuyển từ quản lý truyền thống mang tính thủ công sang phương thức quản lý hiện đại theo cơ chế NNT tự tính, tự khai, tự nộp thuế và tự chịu trách nhiệm về thực hiện nghĩa vụ thuế theo pháp luật thuế, hỗ trợ NNT thực hiện tốt nghĩa vụ thuế.

- Luật quản lý thuế tạo sự đồng bộ , nâng cao tính rõ ràng , minh bạch trong công tác hành thu ; tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của Nhà nước , xã hội trong công tác quản lý thuế; là cơ sở pháp lý để NNT thực hiện thuế

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 19/12/2022