Biện Pháp Cấm Đi Khỏi Nơi Cư Trú (Điều 91 Bltths)

tạm giữ và trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Thời hạn tạm giữ là không quá 3 ngày kể từ khi CQĐT nhận người bị bắt. Trong trường hợp cần thiết thì có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá 3 ngày và trong trường hợp đặc biệt có thể gia hạn tạm giữ lần hai nhưng không quá 3 ngày và mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn [30, Điều 86, Khoản 3].

1.2.2.3. Biện pháp tạm giam (Điều 88 BLTTHS)

Tạm giam là BPNC trong TTHS do cơ quan THTT áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội trong trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt trên hai năm và có những căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội [7, tr.276].

Tạm giam là BPNC nghiêm khắc nhất trong các BPNC của TTHS nhằm tước tự do và một số quyền công dân khác (như quyền bầu cử, ứng cử…) của bị can, bị cáo trong một thời gian nhất định để đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử không bị cản trở hoặc ngăn chặn họ không thể tiếp tục thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.

* Các trường hợp áp dụng biện pháp tạm giam

Theo quy định tại khoản 1 Điều 88 BLTTHS năm 2003 thì tạm giam được áp dụng đối với:

+ Bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng: đây là trường hợp bị can, bị cáo phạm tội mà theo quy định của BLHS thì mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt áp dụng đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù hoặc phạm tội mà mức cao nhất của khung hình phạt là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

- Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ để cho rằng người đó có

thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.

Nếu bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang thời kỳ nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà phải áp dụng BPNC khác trừ những trường hợp sau: bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã; bị can, bị cáo được áp dụng BPNC khác nhưng lại tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử; Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại cho an ninh quốc gia.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

* Thẩm quyền ra lệnh tạm giam

Theo quy định tại BLTTHS năm 2003 thì những người có quyền ra lệnh tạm giam gồm:

Bảo vệ quyền con người thông qua các biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do theo quy định - 5

- Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và VKSQS các cấp,

- Chánh án, Phó Chánh án TAND và Tòa án quân sự các cấp,

- Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm TAND tối cao,

- Hội đồng xét xử,

- Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp. Trong trường hợp này, lệnh tạm giam phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành [30, Điều 88, Khoản 3].

* Thủ tục tạm giam

Việc tạm giam phải có lệnh bằng văn bản của người có thẩm quyền trong đó ghi rõ lý do, thời hạn tạm giam, lệnh này phải giao cho người bị tạm giam một bản. Sau khi ra lệnh tạm giam, cơ quan đã ra lệnh phải thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc biết.

* Về thời hạn tạm giam

Thời hạn tạm giam được quy định cho từng giai đoạn tố tụng, theo đó:

- Thời hạn tạm giam để điều tra (Điều 120 BLTTHS): không quá 2 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 3 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 4 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Trường hợp vụ án phức tạp cần kéo dài thời hạn tạm giam để phục vụ cho việc điều tra thì có thể gia hạn tạm giam thời hạn gia hạn tạm giam là:

+ Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá một tháng.

+ Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá 2 tháng và lần thứ hai không quá một tháng.

+ Đối với tội phạm rất nghiêm trọng: có thể được tạm giam không quá hai lần, lần thứ nhất không quá 3 tháng, lần thứ hai không quá 2 tháng.

+ Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: có thể được gia hạn tạm giam ba lần và mỗi lần không quá 4 tháng.

Khi phục hồi điều tra, điều tra bổ sung hoặc điều tra lại, trong trường hợp có căn cứ theo quy định của BLTTHS cần phải tạm giam thì thời hạn tạm giam để phục hồi điều tra không được quá thời hạn phục hồi điều tra quy định tại khoản 1 Điều 121 BLTTHS. Như vậy, thời hạn tạm giam bị can để phục hồi điều tra là: không quá hai tháng đối với tội ít nghiêm trọng; không quá hai tháng đối với tội nghiêm trọng và tội rất nghiêm trọng, có thể được gia hạn một lần nhưng không quá hai tháng; không quá ba tháng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng và có thể được gia hạn một lần nhưng không qua ba tháng.

Thời hạn tạm giam để điều tra bổ sung cũng được quy định tại khoản 4 Điều 121 BLTTHS, theo đó: Nếu hồ sơ do Viện kiểm sát trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn tạm giam bị can để điều tra bổ sung là không quá hai tháng. Nếu hồ sơ do Tòa án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn tạm giam bị can

để điều tra bổ sung là không quá một tháng. Viện kiểm sát và Tòa án chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung không quá hai lần [30].

- Thời hạn tạm giam để truy tố (Điều 166 BLTTHS): Sau khi nhận hồ sơ vụ án, trong trường hợp cần tiếp tục tạm giam bị can để hoàn thành việc truy tố thì thời hạn tạm giam là: không quá 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp cần thiết thì có thể gia hạn nhưng không quá 10 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và không quá 30 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [30].

- Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử sơ thẩm (Điều 177 BLTTHS): Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, nếu cần thiết phải áp dụng BPNC tạm giam đối với bị can thì thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá: 45 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng; không quá hai tháng đối với tội phạm nghiêm trọng; không quá hai tháng mười lăm ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và không quá ba tháng mười lăm ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa nhận được hồ sơ vụ án đến ngày mở phiên tòa xét xử vụ án.

Đối với các vụ án phức tạp (vụ án có nhiều bị can, phạm tội có tổ chức hoặc phạm nhiều tội; vụ án liên quan đến nhiều lĩnh vực hoặc nhiều địa phương; vụ án có nhiều tài liệu, có các chứng cứ mâu thuẫn với nhau, cần có thời gian để nghiên cứu, tổng hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án hoặc để tham khảo ý kiến của cơ quan chuyên môn) thì cần gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử và thời hạn tối đa để chuẩn bị xét xử trong các trường hợp này được tính như sau: Hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng; Hai tháng mười lăm ngày đối với tội phạm nghiêm trọng; Ba tháng mười lăm ngày đối với tội

phạm rất nghiêm trọng và Bốn tháng mười lăm ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [30].

- Thời hạn tạm giam sau khi tuyên án (Điều 228 BLTTHS năm 2003): điều luật đã quy định cụ thể cho HĐXX trong việc áp dụng biện pháp bắt tạm giam bị cáo sau khi tuyên án, đó là trường hợp: bị cáo đang bị tạm giam mà bị phạt tù nhưng đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết thì HĐXX ra quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án nhưng phải thuộc trường hợp thời hạn tù dài hơn thời hạn đã bị tạm giam; đối với trường hợp bị cáo không bị tạm giam mà bị xử phạt tù thì HĐXX có thể quyết định bắt tạm giam ngay nếu có căn cứ cho rằng bị cáo trốn hoặc tiếp tục phạm tội. Thời hạn tạm giam sau khi tuyên án là 45 ngày [30].

- Tạm giam để xét xử phúc thẩm: thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm là không quá: sáu mươi ngày đối với vụ án do TAND cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp quân khu thụ lí để xét xử phúc thẩm và chín mươi ngày đối với vụ án do Toà án quân sự Trung ương, Toà phúc thẩm TAND Tối cao thụ lí để xét xử phúc thẩm [30, Điều 243].

Đối với trường hợp bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu cần thiết tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử thì Tòa án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa.

- Thời hạn tạm giam sau khi tuyên án phúc thẩm: được quy định như sau:

Đối với trường hợp bị cáo đang bị tạm giam bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết thì HĐXX ra quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án trừ trường hợp: bị cáo bị xử phạt tù nhưng được hưởng án treo và thời hạn tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn bị cáo đã bị tạm giam.

Đối với trường hợp bị cáo không bị tạm giam nhưng bị xử phạt tù thì HĐXX có thể ra quyết định bắt tạm giam bị cáo ngay sau

khi tuyên án trừ trường hợp bị cáo: bị bệnh nặng; là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, không bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng và là lao động duy nhất trong gia đình nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt; bị kết án về tội ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ.

Thời hạn tạm giam là bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày tuyên án [30, Điều 243, Khoản 3].

Trong trường hợp hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại mà thời hạn tạm giam đối với bị cáo đã hết và xét thấy việc tiếp tục tạm giam bị cáo là cần thiết thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo cho đến khi Viện kiểm sát hoặc Toà án cấp sơ thẩm thụ lí lại vụ án [30, Điều 250, Khoản 5].

Ngoài các thời hạn nêu trên, BLTTHS còn đề cập đến thời hạn tạm giam đối với bị cáo đang bị tạm giam mà Toà án cấp giám đốc thẩm huỷ án để điều tra hoặc xét xử lại, theo đó: “Trong trường hợp huỷ bản án hoặc quyết định bị kháng nghị để điều tra hoặc để xét xử lại và xét thấy việc tiếp tục tạm giam bị cáo là cần thiết thì Hội đồng giám đốc thẩm ra lệnh tạm giam cho đến khi Viện kiểm sát hoặc Toà án thụ lí lại vụ án” [30, Điều 287].

1.2.2.4. Biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú (Điều 91 BLTTHS)

Cấm đi khỏi nơi cư trú là BPNC của TTHS áp dụng đối với bị can bị cáo, buộc họ không được đi khỏi nơi cư trú và phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan THTT [7, tr.283].

- Đối tượng áp dụng

Đối tượng áp dụng biện pháp này là bị can, bị cáo. Điều luật không quy định cụ thể những bị can, bị cáo nào được áp dụng biện pháp này, tuy nhiên thực tiễn thì thường áp dụng đối với các bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm

trọng, lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng, thái độ khai báo thành khẩn và có đủ cơ sở cho rằng họ sẽ không bỏ trốn, gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội [7, tr.284].

Khi bị áp dụng biện pháp này, bị can, bị cáo phải làm giấy cam đoan không đi khỏi nơi cư trú và có mặt khi các cơ quan THTT triệu tập. Trong thời gian bị áp dụng biện pháp này, bị can, bị cáo phải chịu sự quản lý, giám sát về việc đi lại của chính quyền xã, phường hoặc thị trấn nơi mình cư trú. Trong trường hợp có lý do chính đáng phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì bị can, bị cáo phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường hoặc thị trấn nơi cư trú và phải được phép của cơ quan đã áp dụng biện pháp này.

Nếu bị can, bị cáo vi phạm lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú sẽ bị áp dụng BPNC khác.

- Thẩm quyền và thủ tục áp dụng

CQĐT, Viện kiểm sát và Tòa án có quyền quyết định việc áp dụng biện pháp này trong giai đoạn tố tụng của mình. Những người có thẩm quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú gồm:

+ Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và VKSQS các cấp;

+ Chánh án, Phó Chánh án TAND và Tòa án quân sự các cấp;

+ Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng xét xử, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa;

+ Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp [30, Điều 91, Khoản 2].

Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải ghi rõ ngày tháng năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị cấm đi khỏi nơi cư trú và nơi họ được phép cư trú. Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông báo cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú biết và phải làm

thủ tục bàn giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn để quản lý, theo dõi họ.

1.2.2.5. Áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội

Việc bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên được quy định tại Điều 303 của BLTTHS. Theo đó:

- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu đủ căn cứ quy định về việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam, bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã theo quy định tại Điều 80, 81, 82, 86, 88, 120 của BLTTHS nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.

- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các Điều 80, 81, 82, 86, 88, 120 của BLTTHS nhưng chỉ trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.

+ Cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phạm tội phải thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ biết ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam [30].

1.2.2.6. Việc hủy bỏ hoặc thay thế BPNC (Điều 94 BLTTHS)

Áp dụng các BPNC trong quá trình giải quyết vụ án hình sự là cần thiết nhằm đạt được mục đích của TTHS. Tuy nhiên, việc áp dụng các BPNC cũng cần phải đảm bảo theo đúng căn cứ và trong quá trình giải quyết vụ án, khi những căn cứ để áp dụng các BPNC không còn hoặc việc áp dụng các biện pháp đó là không còn cần thiết thì cần phải thay thế hoặc hủy bỏ BPNC đối với người bị áp dụng BPNC. BLTTHS năm 2003 đã quy định về vấn đề này như sau:

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 21/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí