căn cứ xử lý hình sự như những năm vừa qua. Để thực hiện được vấn đề này, trước hết CQĐT cần phải kiện toàn đội ngũ Điều tra viên đảm bảo cả về số lượng và chất lượng. Đồng thời phải thường xuyên tiến hành tập huấn nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ Điều tra viên vì đây là những người trực tiếp thực hiện việc áp dụng các BPNC. Phải quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Đảng, đó là: những trường hợp bắt, giam cũng được hoặc không bắt cũng được thì phải không bắt, giam; không sử dụng việc áp dụng biện pháp bắt, giam thay cho điều tra.
Việc áp dụng biện pháp bắt, giữ thường do CQĐT thực hiện ngay từ giai đoạn trước khi khởi tố vụ án hình sự. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng áp dụng các BPNC của CQĐT là rất quan trọng, trong đó mấu chốt là việc cần phải trang bị cho Điều tra viên những kiến thức về nghiệp vụ cũng như quan điểm của Đảng trong việc áp dụng các biện pháp bắt, giam. Đồng thời cũng cần phải có hình thức xử lý nghiêm những trường hợp áp dụng các BPNC không đúng quy định pháp luật.
- Đối với Viện kiểm sát:
BLTTHS năm 2003 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra như sau: “… Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra theo quy định của bộ luật này…” [30, Điều 112, Khoản 4]. Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã nêu rõ:
Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giữ, giam đảm bảo đúng pháp luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát hiện xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong bắt giữ. Viện kiểm
sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình [2].
Vì vậy, Viện kiểm sát cần kiện toàn đội ngũ Kiểm sát viên đủ năng lực trình độ chuyên môn nghiệp vụ, nắm vững các quy định của pháp luật về áp dụng các BPNC, các định hướng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về công tác này để vận dụng vào thực tiễn. Đồng thời cần phải:
+ Tăng cường kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam của CQĐT đối với từng trường hợp cụ thể, đặc biệt là những trường hợp bắt khẩn cấp thì Kiểm sát viên cần phải lấy lời khai của đối tượng nhằm xác định rõ trường hợp bắt và hành vi phạm tội của họ trước khi tiến hành phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp nhằm đảm bảo việc bắt khẩn cấp đúng căn cứ, cần thiết, đối với những trường hợp bắt khẩn cấp không đảm bảo theo quy định thì kiên quyết từ chối phê chuẩn và yêu cầu CQĐT trả tự do ngay cho đối tượng, hạn chế việc lạm dụng biện pháp bắt khẩn cấp như hiện nay. Đối với những trường hợp tạm giữ và gia hạn tạm giữ: cần phải đánh giá, phân loại từng trường hợp phạm tội quả tang. Đối với những trường hợp tạm chỉ là vi phạm hành chính thì cần kịp thời hủy bỏ quyết định tạm giữ hoặc từ chối không phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ và yêu cầu CQĐT trả tự do ngay. Đối với trường hợp tạm CQĐT ra lệnh tạm giam hoặc bắt bị can để tạm giam thì cần phải nghiên cứu kỹ hồ sơ về tính chất vụ việc cũng như nhân thân, thái độ của đối tượng, điều kiện hoàn cảnh của đối tượng… để xác định căn cứ cũng như sự cần thiết của việc tạm giam nhằm đảm bảo việc phê chuẩn áp dụng biện pháp này theo đúng quy định pháp luật.
Mặt khác, việc tổng kết, rút kinh nghiệm và có hướng dẫn kịp thời những điểm chưa rõ ràng, còn có nhận thức khác nhau trong việc áp dụng nhằm thống nhất trong nhận thức từ đó áp dụng vào thực tiễn chính xác. VKSNDTC phải kịp thời phối hợp với Bộ Công an và TANDTC để hướng dẫn việc thực hiện các quy định của pháp luật nói chung và các quy định của
BLTTHS về các BPNC nói riêng để việc vận dụng và áp dụng pháp luật thống nhất giữa các cơ quan THTT. Đối với những quy định không còn phù hợp trong BLTTHS năm 2003 cần phải tổng kết để kịp thời sửa đổi, bổ sung.
Có thể bạn quan tâm!
- Nguyên Nhân Của Những Hạn Chế, Bất Cập
- Hoàn Thiện Các Quy Định Của Luật Tố Tụng Hình Sự Về Các Biện Pháp Ngăn Chặn Hạn Chế Quyền Tự Do
- Hoàn Thiện Các Quy Định Về Biện Pháp Cấm Đi Khỏi Nơi Cư Trú Đối Với Biện Pháp Này, Theo Quan Điểm Của Chúng Tôi, Cần Phải Quy Định
- Bảo vệ quyền con người thông qua các biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do theo quy định - 14
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
Kịp thời khen thưởng những cá nhân có thành tích, sáng tạo trong công việc đồng thời xử lý nghiêm những cá nhân thiếu trách nhiệm dẫn đến việc áp dụng các BPNC oan, sai.
- Đối với Tòa án:
Cần phải tiến hành thường xuyên công tác tập huấn nghiệp vụ cho Thẩm phán và Hội thẩm về việc áp dụng, thay thế hoặc hủy bỏ BPNC, có văn bản hướng dẫn cụ thể các trường hợp bắt tạm giam bị cáo ngay sau phiên tòa để Thẩm phán và Hội thẩm có đánh giá đầy đủ tính chất, mức độ nguy hiểm, sự cần thiết phải áp dụng biện pháp tạm giam cũng như những trường hợp cần thay thế, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị cáo để quyết định việc áp dụng, thay thế, hủy bỏ BPNC đối với từng trường hợp đảm bảo đúng quy định pháp luật.
Cùng với việc nâng cao trình độ chuyên môn cho những người THTT thì cần phải nâng cao trách nhiệm của những người THTT trong quá trình áp dụng các BPNC. Để thực hiện được vấn đề này, theo chúng tôi cần phải có sự tăng cường kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý cấp trên, đặc biệt cần tăng cường công tác kiểm sát của Viện kiểm sát đối với hoạt động áp dụng các BPNC của CQĐT. Bởi với chức năng của Viện kiểm sát được quy định tại Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát thì vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng các BPNC hạn chế quyền tự do là rất quan trọng, góp phần đảm bảo việc áp dụng các BPNC thẩm quyền, trình tự, thủ tục, sự cần thiết, qua đó bảo vệ được quyền con người và Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 đã nêu rõ:
Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp… Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ đảm bảo đúng pháp
luật… Công tác giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp tập trung vào việc chấp hành pháp luật trong lĩnh vực bắt, tạm giữ, tạm giam, truy tố, xét xử, thi hành án… [2].
Mặt khác, phải nâng cao vai trò giám sát của các cơ quan Nhà nước, Ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viện của Mặt trận, đại biểu dân cử đối với hoạt động của các cơ quan và người THTT trong quá trình áp dụng các BPNC đảm bảo cho hoạt động này được khách quan và đúng quy định pháp luật.
- Đồng thời cần phải tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước, quan điểm đường lối bảo vệ quyền con người của Nhà nước ta cho đội ngũ cán bộ các cơ quan tiến hành tố tụng để họ nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền con người thông qua các hoạt động tố tụng của mình.
Tóm lại, việc nâng cao trình độ nghiệp vụ, ý thức pháp luật cho những người THTT có thẩm quyền trong việc áp dụng, thay thế, hủy bỏ các BPNC giúp cho họ có nhận thức đúng đắn về các quy định của BPNC cũng như ý nghĩa của việc áp dụng các biện pháp này, đồng thời tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát là vấn đề cơ bản để nâng cao hiệu quả áp dụng các BPNC trong thực tiễn.
3.3. Một số giải pháp khác
Cùng với việc hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng các BPNC hạn chế quyền tự do trên thực tiễn, theo chúng tôi cũng cần phải thực hiện tốt một số giải pháp như:
- Nhà nước cần phải có các biện pháp để tăng cường đội ngũ luật sư, người bào chữa cả về số lượng và chất lượng, nâng cao vị thế của luật sư trong TTHS, bảo đảm vai trò quan trọng của luật sư, người bào chữa trong việc bảo vệ quyền con người của những người bị áp dụng các BPNC hạn chế quyền tự do.
- Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những trường hợp do thiếu trách nhiệm đã khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (trong đó có cả việc áp dụng BPNC) oan người không có tội gây hậu quả rất nghiêm trọng như: việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một số người THTT trong vụ án oan Nguyễn Thanh Chấn tại Bắc Giang hay vụ Công an dùng nhục hình tại Phú Yên,… việc truy cứu trách nhiệm hình sự trong những trường hợp trên sẽ có tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa rất lớn. Tuy nhiên, đối với những người THTT có hành vi xâm phạm con người nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì cũng cần phải có mức độ xử lý kỷ luật tương xứng như: bãi miễn hoặc không tái bổ nhiệm các chức danh Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán.
Bên cạnh đó, cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật để mọi người dân trong xã hội nhận thức được các quy định của pháp luật về quyền con người cũng như các BPNC. Từ đó góp phần nâng cao khả năng tự bảo vệ quyền con người của những người bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn này bằng việc tạo điều kiện tốt nhất để họ có thể được tiếp cận với các dịch vụ pháp lý thực hiện quyền bào chữa của mình trong quá trình bị áp dụng các BPNC.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Để tăng cường bảo vệ quyền con người thông qua các biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, trước hết cần phải hoàn thiện các quy định của BLTTHS về các BPNC đảm bảo các căn cứ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn được quy định cụ thể, chặt chẽ, chính xác, tạo được sự chủ động và tự chịu trách nhiệm cho những người trực tiến được gaio nhiệm vụ THTT trong vụ án, và cần phải bổ sung điều luật quy định về quyền của người bị bắt. Đồng thời với việc hoàn thiện các quy định của pháp luật cần phải thực hiện một số giải pháp như: tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật để việc áp dụng pháp luật được thống nhất, nâng cao trình độ năng lực, tinh thần trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng, tăng cường đội ngũ luật sư cả về số lượng và chất lượng cũng như nâng cao vị thế của luật sự trong tố tụng hình sự, tăng cường công tác thanh tra, giải quyết kịp thời những vi phạm quyền con người trong quá trình áp dụng các BPNC hạn chế quyền tự do.
KẾT LUẬN
Quyền con người là sự thống nhất biện chứng giữa quyền tự nhiên và quyền xã hội và cần được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người có là vị trí trung tâm trong mọi chính sách kinh tế và xã hội, luôn tạo mọi điều kiện để con người phát triển. Nhà nước luôn bảo đảm và bảo vệ quyền con người thông qua các biện pháp lập pháp và thi hành pháp luật, các biện pháp liên quan đến chế độ trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ công chức trong việc bảo vệ quyền con người, các biện pháp xử lý vi phạm quyền con người, các biện pháp đảm bảo thực hiện dân chủ trong hoạt động của Nhà nước.
Các BPNC hạn chế quyền tự do trong Luật TTHS có ảnh hưởng rất lớn đến quyền con người. Việc quy định và áp dụng đúng đắn các BPNC này có tác dụng rất lớn trong việc ngăn chặn tội phạm cũng như bảo vệ quyền con người. Thực tiễn áp dụng các BPNC này trong thời điểm từ năm 2009 đến năm 2013 cho thấy về cơ bản các BPNC đã phát huy được tác dụng, phục vụ có hiệu quả cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, bảo vệ được các quyền và lợi ích cơ bản của công dân số người bị tạm giữ hình sự sau chuyển khởi tố bị can đều đạt tỷ lệ trên 92%.
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định cũng như thực trạng áp dụng các BPNC hạn chế quyền tự do theo quy định của Luật TTHS, dưới góc độ bảo vệ quyền con người có thể rút ra được một số kết luận như sau:
- Các BPNC trong TTHS được quy định trong Luật TTHS và áp dụng nhằm mục đích phát hiện nhanh chóng, chính xác, kịp thời mọi hành vi phạm tội không để gây ra những thiệt hại cho xã hội cũng như ảnh hưởng đến quyền con người. Vì vậy việc quy định và áp dụng các biện pháp này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người, quyền công dân được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật.
- Các BPNC phải được quy định trên cơ sở và mục đích là đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt chức năng của mình trong quá trình giải quyết vụ án hình sự qua đó thực hiện tốt công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm, đảm bảo trật tự pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa đồng thời nhằm bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
- Các quy định về các BPNC hạn chế quyền tự do là cơ sở pháp lý cần thiết cho các cơ quan và người tiến hành tố tụng áp dụng trên thực tế vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, đồng thời không xâm phạm đến các quyền con người khác của những người bị áp dụng các biện pháp này.
- Hiệu quả bảo vệ quyền con người thông qua các BPNC hạn chế quyền tự do dựa trên cơ sở nhằm ngăn chặn được tội phạm, bảo vệ được các quyền lợi ích hợp pháp của công dân cũng như các quyền con người không bị hạn chế của những người bị áp dụng các BPNC này.
Tuy nhiên, trong thực tiễn hiệu quả bảo vệ quyền con người thông qua các BPNC này có lúc, có nơi còn chưa được đảm bảo và do nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì vậy, để nâng cao hơn nữa hiệu quả bảo vệ quyền con người thông qua các BPNC hạn chế quyền tự do theo quy định của luật TTHS thì cần phải có nhiều giải pháp. Từ việc hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về các BPNC này, việc tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật, nâng cao trình độ nhận thức cũng như tinh thần trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng, việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục về quyền con người nói chung và quyền con người trong TTHS nói riêng.
Nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền con người thông qua các BPNC hạn chế quyền tự do theo quy định của Luật TTHS là một vấn đề phức tạp nhưng có ý nghĩa rất quan trọng trong lý luận và thực tiễn, đặc biệt là khi Việt Nam là thành viên thường trực của Ủy ban nhân quyền Liên hợp quốc. Trong phạm vi luận văn này, tác giả đã cố gắng đưa ra một số vấn đề cơ bản nhất nhằm