1 Điều 88 BLTTHS năm 2003: theo quy định này thì bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc; cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Vấn đề đặt ra: hình phạt tù trên hai năm là như thế nào? việc quy định này sẽ có cách hiểu khác nhau và dẫn đến việc áp dụng căn cứ để tạm giam là không thống nhất. Đồng thời việc quy định “có căn cứ chứng tỏ rằng” dẫn đến việc đánh giá các căn cứ để tạm giam mang tính chỉ quan của những người có thẩm quyền áp dụng biện pháp này.
Các căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam cần phải được quy định cụ thể, tránh tình trạng chung chung và tùy thuộc vào ý chí của những người có thẩm quyền áp dụng biện pháp này theo quy định của BLTTHS hiện hành bởi theo như quy định hiện hành sẽ dẫn đến tình trạng lạm dụng việc áp dụng biện pháp này nhưng cũng có nhiều trường hợp cần thiết phải tạm giam thì các cơ quan và người có thẩm quyền lại không áp dụng vì vậy đối tượng lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Theo đó mọi trường hợp khi áp dụng biện pháp tạm giam đều phải có một trong các căn cứ xác định: bị can bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội, gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, cần phải ngăn chặn tội phạm. Và các căn cứ đó cần phải được chứng minh bằng các căn cứ cụ thể, được xem xét một cách khách quan trên cơ sở tội phạm được thực hiện, hoàn cảnh khách quan của việc phạm tội cũng như nhân thân của bị can, bị cáo.
Theo quan điểm của chúng tôi, căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam tại Điều 88 BLTTHS nên quy định như sau: Tạm giam có thể được áp dụng đối với các bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử về tội mà BLHS quy định hình phạt tù và thuộc một trong các trường hợp:
a/ Không có nơi cư trú rõ ràng;
b/ Có căn cứ xác định bị can, bị cáo có thể bỏ trốn; c/ Có thể tiếp tục phạm tội.
- Về những người có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam:
Theo quy định tại Điều 88 của BLTTHS năm 2003 thì những người có thẩm quyền ra lệnh tạm giam bao gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án các cấp, Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa Tòa phúc thẩm TANDTC, Hội đồng xét xử; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT các cấp. Trong đó Lệnh của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Theo quy định này thì người đứng đầu các cơ quan THTT có quyền hạn tuyệt đối trong việc áp dụng, thay thế hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam trên cơ sở báo cáo, đề xuất của Điều tra viên, Kiểm sát viên là những người trực tiếp tiến hành tố tụng. Với quy định này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của việc áp dụng các BPNC, làm cho các quyết định áp dụng, thay thế hoặc hủy bỏ BPNC khó đảm bảo được tính chính xác, khách quan; đồng thời đã không tạo ra cơ sở phân định trách nhiệm giữa Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT với Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát với Kiểm sát viên đối với kết quả hoạt động áp dụng các BPNC.
Để nâng cao hiệu quả các hoạt động tố tụng nói chung và hoạt động áp dụng các BPNC nói riêng, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nói chung và của người bị áp dụng các BPNC nói riêng, theo quan điểm của chúng tôi cần phải hoàn thiện các quy định của BLTTHS về trách nhiệm, quyền hạn của người THTT theo hướng: phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với thẩm quyền tư pháp trong hoạt động tố tụng hình sự, tăng quyền hạn và trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán trong việc áp dụng các BPNC để họ chủ động trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. “Bảo đảm quyền hạn phải đi đôi với nâng cao trách nhiệm, chỉ khi quyền hạn gắn với trách nhiệm thì người tiến hành tố tụng mới thận trọng hơn trong việc xử lý vụ án” [2, tr. 6]. Cụ thể: Giao cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán được phân công giải quyết vụ án được quyền quyết định việc áp dụng, thay thế hoặc hủy bỏ các BPNC và việc phê chuẩn của Viện kiểm sát đối với quyết định gia hạn tạm giữ và Lệnh tạm giam của CQĐT trong quá trình giải quyết vụ án bởi họ là người trực tiếp tiến hành tố tụng nên sẽ hiểu rõ hơn ai hết về các căn cứ cũng như sự cần thiết phải áp dụng, thay thế hoặc hủy bỏ các BPNC đối với những người đang bị áp dụng; Đồng thời việc giao quyền này cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán sẽ nâng cao trách nhiệm của họ trong việc áp dụng các BPNC, khắc phục được tình trạng dựa dẫm, đùn đẩy nhau trong việc quyết định áp dụng, thay thế hoặc hủy bỏ BPNC, qua đó nâng cao được hiệu quả bảo vệ quyền con người thông qua việc áp dụng các BPNC hạn chế quyền tự do theo quy định của BLTTHS và phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị là: “Tăng quyền và trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình” [4].
- Về thời hạn tạm giam:
Có thể bạn quan tâm!
- Số Bị Can Viện Kiểm Sát Không Phê Chuẩn Lệnh Giam Và Bắt Tạm Giam
- Nguyên Nhân Của Những Hạn Chế, Bất Cập
- Hoàn Thiện Các Quy Định Của Luật Tố Tụng Hình Sự Về Các Biện Pháp Ngăn Chặn Hạn Chế Quyền Tự Do
- Bảo vệ quyền con người thông qua các biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do theo quy định - 13
- Bảo vệ quyền con người thông qua các biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do theo quy định - 14
Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.
Để đảm bảo việc áp dụng pháp luật được thống nhất đồng thời tăng cường hiệu quả bảo vệ quyền con người, theo chúng tôi nên quy định thời hạn chuẩn bị xét xử (Điều 176 BLTTHS) tính từ khi Tòa án nhận được hồ sơ do Viện kiểm sát chuyển đến để đảm bảo tính thống nhất và bảo vệ quyền con người của người bị áp dụng biện pháp tạm giam để chuẩn bị xét xử (vì thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử phụ thuộc vào thời hạn chuẩn bị xét xử)
- Việc thông báo cho gia đình người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết: theo chúng tôi nên quy định việc thông báo tạm giam được thực hiện như trong trường hợp bắt (trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra lệnh tạm giam).
- Đồng thời, để hạn chế việc tạm giam, cần mở rộng việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác thay thế cho biện pháp tạm giam như bảo lĩnh, đặt
tiền hoặc tài sản để bảo đảm. Theo đó, phải sửa đổi quy định những điều kiện chặt chẽ nhằm bảo đảm phát huy hiệu lực, hiệu quả các biện pháp ngăn chặn này trong việc ngăn ngừa bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc gây cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội.
3.1.1.4. Hoàn thiện các quy định về biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú Đối với biện pháp này, theo quan điểm của chúng tôi, cần phải quy định
thời hạn của việc áp dụng biện pháp này nhằm tránh trường hợp áp dụng qua tất cả các giai đoạn tố tụng mà không có một thời hạn cụ thể nào và cũng cần xem xét trong trường hợp người bị áp dụng biện pháp này khi bị Tòa án tuyên hình phạt là cải tạo không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn thì thời hạn bị áp dụng biện pháp này cũng được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt theo Bản án mà Tòa án tuyên đối với họ. Tham khảo pháp luật TTHS của nước Công hòa nhân dân Trung Hoa thì: Thời hạn bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú được trừ vào thời hạn khi chấp hành hình phạt. Theo đó, chúng tôi đề xuất đối với những người đã bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú, nếu họ phải chấp hành hình phạt là tù có thời hạn hoặc cải tạo không giam giữ thì thời gian đã phải chấp hành biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú được trừ vào thời hạn phạt tù với cách tính quy đổi: nếu là hình phạt tù có thời hạn thì 03 ngày bị áp dụng cấm đi khỏi nơi cư trú bằng 01 ngày tù, còn nếu là hình phạt cải tạo không giam giữ thì 01 ngày bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú bằng 01 ngày cải tạo không giam giữ. Bởi theo quan điểm của chúng tôi thì thời hạn bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú không có sự khác biệt nhiều so với việc chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ vì khi người bị tuyên hình phạt cải tạo không giam giữ thì họ được giao cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó. Trong khi đó, bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú được
giao cho chính quyền xã, phường, thị trấn để quản lý, theo dõi họ. Trong trường hợp bị can, bị cáo có lý do chính đáng phải tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú và phải có giấy phép của cơ quan đã áp dụng biện pháp ngăn chặn đó. Rõ ràng, bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cũng bị hạn chế các quyền công dân gần giống như hình phạt cải tạo không giam giữ. Và theo quy định của BLHS thì “cứ ba ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành một ngày tù” [29, Điều 50, Khoản 1, Điểm b].
3.1.1.5. Hoàn thiện các quy định về bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì người chưa thành niên là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Tại Các nguyên tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do, phần Các nguyên tắc cơ bản đã nêu:
Chỉ được tước tự do của người chưa thành niên theo các nguyên tắc và thủ tục quy định chung trong Các nguyên tắc này và Các Quy tắc Tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về hoạt động tư pháp đối với người chưa thành niên (Các quy tắc Bắc Kinh). Việc tước tự do của người chưa thành niên chỉ được sử dụng như là biện pháp cuối cùng và trong một thời hạn cần thiết tối thiểu, và chỉ nêu giới hạn đối với những trường hợp ngoại lệ. Thời hạn áp dụng biện pháp trừng phạt này cần được cơ quan tư pháp quyết định mà không loại trừ khả năng sớm trả lại tự do cho người chưa thành niên đó [21, tr.709]
Việt Nam là thành viên của các công ước quốc tế về bảo vệ quyền của người chưa thành niên, vì vậy các quy định của pháp luật về người chưa thành niên phải phù hợp với các Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của người chưa thành niên.
Theo như quy định tại khoản 1 Điều 303 BLTTHS thì việc áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
không có sự khác biệt so với người thành niên. Để đáp ứng được chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong việc xử lý người chưa thành niên phạm tội đó là coi trọng giáo dục và phòng ngừa đối với những người này, đồng thời phù hợp với các Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của người chưa thành niên thì cần phải thu hẹp phạm vi áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam đối với những người này. Theo quan điểm của chúng tôi về căn cứ áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên chỉ nên quy định áp dụng khi có cơ sở khẳng định rằng bị can, bị cáo: “có thể tiếp tục phạm tội hoặc có thể trốn” đồng thời nên có quy định thời hạn tạm giam đối với trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên.
3.1.1.6. Hoàn thiện các quy định về thay thế, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn Theo số liệu thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền
tự do trong thời điểm từ năm 2009 đến năm 2013 thấy các cơ quan THTT cũng đã có sự quan tâm đến việc thay thế, hủy bỏ các BPNC đối với các đối tượng trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, tuy nhiên tỷ lệ các bị can, bị cáo được thay thế hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam là thấp. Theo chúng tôi một trong các nguyên nhân dẫn đến tình trạng này đó là do quy định của pháp luật về căn cứ để thay thế, hủy bỏ BPNC chưa được xác định một cách cụ thể mà phụ thuộc vào ý chỉ chủ quan của những người áp dụng, vì theo quy định tại khoản 6 Điều 120 BLTTHS năm 2003 thì: “Trong quá trình tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam thì CQĐT phải kịp thời đề nghị Viện kiểm sát hủy bỏ việc tạm giam…” [30]; hay theo quy định tại Điều 166 và Điều 177 BLTTHS năm 2003 thì không quy định căn cứ thay thế, hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn cho Viện kiểm sát và Tòa án. Để bảo vệ được quyền con người trong vấn đề này, cần phải sửa đổi quy định tại khoản 6 Điều 120 của BLTTHS theo hướng cần phải thay thế hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam khi căn cứ để áp dụng biện pháp này không còn, và bổ sung căn cứ
để thay thế hoặc hủy bỏ BPNC cho Viện kiểm sát và Tòa án tại các Điều 166 và 177 của BLTTHS.
3.1.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của những người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn
- Như đã phân tích tại Chương 2, bắt người là một BPNC nhưng BLTTHS năm 2003 không quy định về quyền của người bị bắt thành một điều luật cụ thể mà mới chỉ quy định tại điều như Điều 85 là có quyền được thông báo về việc bắt. Mặt khác, theo quy định tại khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 thì: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa” [31] tuy nhiên trong BLTTHS năm 2003 chưa có quy định về nội dung này.
Vì vậy, việc bảo vệ và bảo đảm quyền của người bị bắt sẽ khó được bảo đảm và bảo vệ trên thực tế. Theo quan điểm của chúng tôi, cần thiết phải có một điều luật quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị bắt trong đó nêu rõ những quyền của họ như: quyền được biết lý do mình bị bắt, được thông báo về việc bắt, được khiếu nại về việc bắt cũng như việc thu giữ các tài liệu, đồ vật của họ, quyền được mời luật sư bào chữa ngay sau khi bị bắt, quyền được bồi thường thiệt hại nếu bị bắt oan sai,…
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do theo quy định của Luật tố tụng hình sự Việt Nam
Cùng với việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về các BPNC hạn chế quyền tự do, để nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người thì cần phải nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người trong việc áp dụng các BPNC hạn chế quyền tự do trên thực tiễn.
Các BPNC là những biện pháp cưỡng chế cần thiết trong TTHS do người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị bắt, tạm giữ, bị can, bị cáo với
mục đích ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa việc họ tiếp tục phạm tội hoặc gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Trong thời điểm từ năm 2009 đến năm 2013, vẫn xảy ra tình trạng bắt giữ người sau không đủ căn cứ xử lý hình sự, tạm giữ, tạm giam quá hạn luật định,… Tình trạng này đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền con người, lợi ích hợp pháp của công dân. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ trong các cơ quan THTT còn hạn chế, ý thức pháp luật chưa được đề cao.
Vì vậy, để tăng cường hiệu lực, hiệu quả của các cơ quan THTT và hiệu quả bảo vệ quyền con người, quyền công dân thì cần phải nâng cao trình độ năng lực cho đội ngũ những người THTT đồng thời không ngừng bồi dưỡng, nâng cao ý thức pháp luật, ý thức chính trị cho những người này.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cán bộ là cái gốc của công việc, công việc có thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [14, tr.269, 273]. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người thông qua việc áp dụng các BPNC hạn chế quyền tự do theo quy định của BLTTHS, vấn đề đặt ra đối với các cơ quan THTT là:
- Đối với CQĐT:
CQĐT cần phải nâng cao chất lượng hoạt động áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam đảm bảo việc bắt, tạm giữ, tạm giam theo đúng trình tự, thủ tục, thời hạn luật định. Đồng thời phải thường xuyên kiểm tra tính có căn cứ và cần thiết của các BPNC đang áp dụng. Khi căn cứ không còn hoặc việc áp dụng không cần thiết hay cần phải thay thế biện pháp đang áp dụng bằng BPNC khác thì cần phải kịp thời hủy bỏ hoặc yêu cầu Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ, thay thế. Hạn chế tới mức thấp nhất việc bắt, tạm giữ, tạm giam không đúng quy định đặc biệt là việc lạm dụng áp dụng biện pháp bắt khẩn cấp như hiện nay dẫn đến nhiều trường hợp bắt khẩn cấp sau không đủ