Chương I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH NHỮNG TRƯỜNG HỢP LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Bản chất pháp lý của chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Ý nghĩa của việc quy định chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam
Trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về các trường hợp loại trừ TNHS có ý nghĩa trên một số bình diện sau:
1) Những trường hợp loại trừ TNHS là một trong những chế định cơ bản phản ánh nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và PLHS nói riêng trong Nhà nước pháp quyền [14, tr.503].
2) Trong khoa học luật hình sự và trong thực tiễn áp dụng PLHS hiện nay xung quanh những vấn đề khái niệm, hệ thống và bản chất pháp lý của chế định này vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau cần phải được nhà làm luật khẳng định dứt khoát về mặt lập pháp [14, tr.503]. Từ đó, có cách hiểu thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng làm cho việc áp dụng chế định này chính xác và đúng pháp luật.
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam - 1
- Bảo vệ quyền con người bằng chế định loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam - 2
- Vai Trò Của Chế Định Các Trường Hợp Loại Trừ Trách Nhiệm Hình Sự Trong Việc Bảo Vệ Các Quyền Con Người.
- Vấn Đề Bảo Vệ Các Quyền Con Người Trong Trường Hợp Loại Trừ Trách Nhiệm Hình Sự Do Phòng Vệ Chính Đáng.
- Vấn Đề Bảo Vệ Các Quyền Con Người Trong Trường Hợp Loại Trừ Trách Nhiệm Hình Sự Do Tính Chất Nguy Hiểm Cho Xã Hội Của Hành Vi Không Đáng Kể.
Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.
3) Việc tiếp tục phân tích khoa học để làm sáng tỏ về mặt lý luận để tìm ra những trường hợp loại trừ TNHS trong thực tiễn, đồng thời đưa ra một mô hình lý luận nhằm hoàn thiện chế định đang được nghiên cứu là một nhiệm vụ không kém phần quan trọng và cần thiết của khoa học luật hình sự Việt Nam [14, tr.503].
4) Việc quy định các trường hợp loại trừ TNHS trong PLHS Việt Nam giúp cho mọi người vững tin hơn khi hành động, chủ động đấu tranh chống lại
những hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Nhà nước cấm, từ bỏ ý định hoặc hành vi có hại cho xã hội mà mình tưởng lầm là không trái pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật, làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, góp phần xây dựng một xã hội công bằng, văn minh.
5) Việc quy định và hoàn thiện chế định các trường hợp loại trừ TNHS trong PLHS Việt Nam góp phần làm cho pháp luật từng bước đi vào cuộc sống, loại trừ những quy phạm không phù hợp với cuộc sống cũng như kịp thời bổ sung những quy định để điều chỉnh các quan hệ xã hội cần có sự can thiệp của pháp luật.
Tóm lại, quy định vấn đề các trường hợp loại trừ TNHS trong luật hình sự Việt Nam có ý nghĩa chính trị - xã hội và pháp lý rất quan trọng trong việc xác định ranh giới giữa tội phạm và không phải là tội phạm, bảo đảm xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật trong mỗi trường hợp tương ứng, cũng như phát huy tinh thần chủ động đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đặc biệt, trong số đó lại có trường hợp được Nhà nước khuyến khích, khen thưởng như: thực hiện hành vi trong phòng vệ chính đáng và trong tình thế cấp thiết vì chúng là những hành vi có ích cho xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng [56, tr.19].
1.1.2. Một số quan điểm chủ yếu về bản chất pháp lý của chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
Cho đến nay vấn đề bản chất pháp lý của các trường hợp loại trừ TNHS như phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ… vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau dưới đây [14, tr.510 – 512]:
1) Trong khoa học luật hình sự Liên Xô trước đây và khoa học luật hình sự Liên Bang Nga hiện nay có một số quan điểm như sau về bản chất pháp lý của các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, cụ thể là:
a) Một số GS.TSKH luật, Viện sĩ Viện HLKH Liên Xô trước đây (Piôntkôvxki A.A, Rômaskin P.X và Trkhikvađze V.M) viết “Chúng không những chỉ là các tình tiết loại trừ cấu thành tội phạm trong hành vi được thực hiện”.
b) GS.TSKH luật Xlutxki I.I coi các trường hợp này là các tình tiết loại trừ TNHS và phân chia chúng thành ba nhóm: Nhóm thứ nhất – các tình tiết thể hiện rõ lợi ích cho xã hội tính hợp pháp của hành vi (bao gồm: phòng vệ chính đáng, áp dụng các biện pháp cần thiết để bắt giữ người phạm tội, tình thế cấp thiết, chấp hành lệnh hợp pháp, thực hiện các trách nhiệm nghề nghiệp và công vụ, thực hiện quyền của mình và bắt buộc phải tuân thủ); nhóm thứ hai – các tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội và tình phải bị xử phạt của hành vi (bao gồm: tự nguyện đình chỉ tội phạm, sự đồng ý của người bị hại, tính chất nhỏ nhặt của vi phạm pháp luật, sự thay đổi của pháp luật, sự thay đổi của tình hình chính trị - xã hội, hết thời hiệu truy tố hình sự và hết thời hiệu của bản án); nhóm thứ ba – các tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi (bao gồm: sự cưỡng bức về thể xác, sức mạnh không thể chống lại được).
c) Bên cạnh các quan điểm đã nêu, quan điểm của GS.TSKH luật Naumôv A.V là rõ hơn cả, khi ông viết: “Tất cả các trường hợp này đều loại trừ cả tính trái PLHS, cả tính nguy hiểm cho xã hội, cả tính chất lỗi, cả tính phải bị xử phạt của hành vi và do đó, cả tính chất tội phạm của nó”.
d) Sau khi nhà làm luật Liên Bang Nga đã chính thức ghi nhận trong Chương 8 BLHS năm 1996 hiện hành, bản chất pháp lý của những trường hợp này là “Các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi” (các Điều 37 - 42), thì hầu hết các nhà hình sự học Nga đều đồng nhất với quan điểm coi chúng chính là các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi;…
2) Trong khoa học luật hình sự Việt Nam cho đến nay về bản chất pháp lý của các trường hợp loại trừ TNHS vẫn còn tồn tại năm quan điểm chính như sau [14, tr.512-513]:
a) Hầu hết các nhà hình sự học (PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, TS Ngô Ngọc Thủy, TS Nguyễn Mạnh Kháng…) đều coi chúng là các tình tiết loại trừ
tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi và quan điểm này được thể hiện trong hầu hết các giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung).
b) PGS.TS Kiều Đình Thụ quan niệm chúng là những tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự.
c) TS. Nguyễn Ngọc Chí và ThS. Đinh Văn Quế có cùng chung một quan điểm – đều gọi chúng là các trường hợp loại trừ TNHS.
d) Tác giả Phạm Hải Đăng quan niệm chúng là những trường hợp không phải là tội phạm.
e) Tác giả luận văn đồng tình với quan điểm của GS.TSKH Lê Văn Cảm khi cho rằng bản chất pháp lý đó là các trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi với các lý do sau đây [14, tr.513, 515, 516):
Nếu phân tích theo phép biện chứng duy vật và logic của vấn đề, thì trong nghiên cứu khoa học bao giờ người nghiên cứu cũng phải lần lượt đi theo thứ tự từ A rồi mới đến B, C… (chứ không thể chưa qua A, mà lại đi thẳng vào B rồi mới quay lại khẳng định cho A là làm ngược).
Theo cách hiểu trên thì tội phạm tự bản thân nó là một hành vi, nên khi bàn về bản chất pháp lý của hành vi đó chúng ta cần phải lần lượt phân tích theo một thứ tự gồm hai bước: Bước 1 – phân tích các dấu hiệu (A) của nó xem thử hành vi đó có phải là tội phạm hay không, nếu không phải là tội phạm thì do thiếu dấu hiệu nào trong năm dấu hiệu được thừa nhận chung mà tính chất tội phạm của nó được loại trừ; bước 2 – bàn về vấn đề trách nhiệm hình sự với tính chất là hậu quả của việc thực hiện hành vi đó (B) trong từng trường hợp tương ứng cụ thể như thế nào (được loại trừ TNHS - nếu hành vi không phải là tội phạm hoặc là phải chịu TNHS - nếu nó là tội phạm), chứ không thể ngay từ đầu đã bỏ qua bước 1 để sang bước 2.
Nếu xem xét như bước 1 đã nêu, chúng ta có thể nhận thấy rõ bản chất pháp lý của tất cả sáu trường hợp đang nghiên cứu trong Phần chung BLHS
Việt Nam năm 1999 hiện hành (bao gồm: sự kiện bất ngờ, hành vi được thực hiện bởi người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, hành vi được thực hiện bởi người không có năng lực trách nhiệm hình sự, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết và tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi không đáng kể) đều là các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi vì việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự trong các trường hợp này đều thiếu một trong các dấu hiệu của tội phạm.
Như vậy, xuất phát tự sự phân tích trên có thể nhận thấy:
Ngay từ bước 1 chúng ta đã khẳng định được sự loại trừ tính chất tội phạm của hành vi trong sáu trường hợp đã nêu trên được quy định trong Phần chung BLHS Việt Nam năm 1999 và tương ứng như vậy, theo nguyên tắc pháp chế không có tội phạm, không có hình phạt nếu luật không quy định thì đương nhiên chúng là những trường hợp loại trừ TNHS hay nói một cách khác – trong cả sáu trường hợp này chủ thể của hành vi không có TNHS.
Chúng ta không thể khẳng định rằng chúng là những trường hợp loại trừ “tính chất nguy hiểm cho xã hội” của hành vi, vì việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự trong tất cả những trường hợp này rõ rang đều nguy hiểm cho xã hội.
Chúng ta không thể gọi chúng là những trường hợp loại trừ tính “trái pháp luật” của hành vi, vì nếu là trái pháp luật, thì những trường hợp này sẽ có giới hạn rất rộng, bao gồm cả các hành vi cần phải được điều chỉnh bởi một số ngành luật khác nữa chứ không chỉ bởi PLHS.
Đồng thời, không thể bỏ qua bước 1 mà vội đi thẳng sang bước 2 để khẳng định ngay hậu quả của việc thực hiện hành vi rằng chúng là những trường hợp “loại trừ trách nhiệm hình sự” được.
Từ những lập luận khoa học trên GS.TSKH. Lê Văn Cảm đã khẳng định: “Dưới góc độ pháp lý hình sự, bản chất pháp lý chung, đầy đủ và toàn
diện của tất cả sáu trường hợp đã nêu trong Phần chung BLHS năm 1999 là các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi” [14, tr.517].
Tuy đồng tình với quan điểm khoa học của GS.TSKH. Lê Văn Cảm về bản chất pháp lý của sáu trường hợp như: sự kiện bất ngờ, hành vi được thực hiện bởi người chưa đủ tuổi chịu TNHS, hành vi được thực hiện bởi người không có năng lực TNHS, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết và tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi không đáng kể là các trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, tác giả xin phép được sử dụng thuật ngữ “các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự” bởi lẽ nó không mâu thuẫn với thuật ngữ “các trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi” vì suy cho cùng thì hậu quả pháp lý hình sự mà người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội đều giống nhau – không phải chịu trách nhiệm hình sự [Xem: 56, tr.19]. Hơn nữa việc sử dụng thuật ngữ “các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự” là phù hợp với quy định tại Dự thảo BLHS Việt Nam (sửa đổi năm 2015) và phù hợp với thực tiễn xét xử.
1.1.3. Quan điểm của nhà làm luật Việt Nam về bản chất pháp lý của chế định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự
Điều 2 BLHS Việt Nam năm 1999, sửa đổi năm 2009 quy định: "Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự". Như vậy, chỉ một người phạm một tội do BLHS quy định mới phải chịu TNHS. Pháp luật Việt Nam quy định, một người phải chịu TNHS khi đáp ứng đầy đủ cơ sở và những điều kiện của TNHS.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy có một số hành vi tuy về hình thức có các dấu hiệu cấu thành của một tội phạm cụ thể, nhưng về nội dung những hành vi đó lại chứa đựng một số tình tiết làm loại trừ tính chất tội phạm của hành vi (hoặc tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi) hay nói cách khác, do thiếu
ít nhất một trong các dấu hiệu cơ bản của tội phạm, nên hành vi ấy không bị coi là tội phạm và người thực hiện nó không phải chịu TNHS (hay được loại trừ TNHS). Các hành vi ấy thực tế gây thiệt hại cho Nhà nước, cho tổ chức hoặc cá nhân nào đó, nhưng nhìn từ góc độ lợi ích xã hội, cộng đồng và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm… thì thiệt hại đó là không đáng kể so với lợi ích mà các hành vi đó mang lại.
1) Quan điểm của nhà làm luật Việt Nam về bản chất pháp lý của các trường hợp loại trừ TNHS thể hiện trong BLHS Việt Nam hiện hành.
BLHS Việt Nam hiện hành chưa có quy định về khái niệm cũng như các trường hợp loại trừ TNHS thành một chế định riêng biệt mà mới chỉ quy định sáu trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự cùng một chương với các quy định về tội phạm (Chương III) bao gồm:
a) Sự kiện bất ngờ (Điều 11 BLHS Việt Nam năm 1999): “Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ, tức là trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”.
b) Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (khoản 1, Điều 13 BLHS Việt Nam năm 1999): “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh”.
c) Phòng vệ chính đáng (khoản 1, Điều 15 BLHS Việt Nam năm 1999): “Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm”.
d) Tình thế cấp thiết (khoản 1, Điều 16 BLHS Việt Nam năm 1999): “Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe dọa lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm”.
e) Hành vi có tính chất nguy hiểm không đáng kể chưa được quy định thành một điều luật riêng, nó được quy định tại khoản 4, Điều 8 BLHS Việt Nam năm 1999 với tên gọi “Khái niệm tội phạm”như sau: “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác”.
f) Hành vi do người chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện cũng chưa được quy định thành một khoản, điều luật riêng biệt mà đó chỉ là quy định gián tiếp từ Điều 12 BLHS Việt Nam năm 1999 quy định về “tuổi chịu trách nhiệm hình sự” như sau: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm”
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Như vậy, người chưa đủ 14 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm; người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội.
Nghiên cứu BLHS Việt Nam hiện hành cho thấy vẫn chưa có sự thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ tên gọi các trường hợp này (Xem: 41, tr.18): hành vi có tính chất nguy hiểm không đáng kể, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết thì “không phải là tội phạm”; sự kiện bất ngờ, hành vi do người chưa đủ tuổi chịu TNHS thực hiện, tình trạng không có năng lực TNHS thì “không phải chịu trách nhiệm hình sự” hay trong Phần các tội phạm BKHS Việt Nam