càng được đề cao nhằm bảo đảm và tăng cường tính cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ.
Việc bảo hộ nhãn hiệu không chỉ thực hiện tại nước xuất xứ mà chủ nhãn hiệu cần thiết phải mở rộng sự bảo hộ nhãn hiệu đến những vùng lãnh thổ mà mình sẽ xuất khẩu hàng hóa tới bằng các thủ tục xác lập quyền của mình kịp thời tại các vùng lãnh thổ đó. Việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu không những bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của chủ sở hữu đối với nhãn hiệu đó mà điều quan trọng hơn là bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thì thực trạng vi phạm nhãn hiệu bảo hộ ngày càng phức tạp. Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau với những đặc điểm là không có tính bí mật và dễ bắt chước được. Vì vậy, nhiều doanh nghiệp đã làm giả, làm nhái nhãn hiệu đã có uy tín trên thị trường nhằm trục lợi cho mình và đã bị các cơ quan chức năng phát hiện, xử lý. Bên cạnh đó một thực tế là khi nhãn hiệu đã có uy tín trên thị trường trong nước doanh nghiệp muốn phát triển kinh doanh ở nước ngoài trong khi đó lại không đăng ký bảo hộ nhãn hiệu ở nước ngoài và bị các nhà sản xuất khác lợi dụng đã đi đăng ký bảo hộ chính nhãn hiệu đó.
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương Mại Thế giới (WTO), đây có thể coi là một cơ hội rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc giao lưu thương mại với các nước khác trên thế giới. Cơ hội để Việt Nam giới thiệu, xúc tiến và hoạt động thương mại với các doanh nghiệp trên thế giới sẽ tạo ra cho các doanh nghiệp Việt Nam xâm nhập và khẳng định vị thế của mình tại các thị trường mới này đặc biệt là các thị trường khắt khe như Mỹ, Nhật, Anh, Trung Quốc. Cùng với các cơ hội nêu trên, các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt với những thách thức, khó khăn không nhỏ. Chúng ta dễ dàng nhận thấy các doanh nghiệp tại các nước tư bản chủ nghĩa nhận thức rất sớm và đúng đắn về tài sản trí tuệ do nền kinh tế thị trường tại các quốc gia này đã hình thành và phát triển từ rất sớm. Họ đã sớm nhận thức được ý nghĩa cũng như những giá trị kinh tế hết sức to lớn mà các tài sản trí tuệ sẽ mang lại cho các hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình. Tuy nhiên, giá trị của các tài sản trí tuệ không phải được hình thành một cách tự nhiên mà nó phải trải qua cả một quá trình tích luỹ lâu dài bởi các hoạt động đầu tư tài chính của các doanh nghiệp là chủ sở hữu của các tài sản trí tuệ đó. Để loại trừ nguy cơ bị chủ thể khác sử dụng trái phép các tài sản trí tuệ của mình, các chủ đầu tư đã đặc biệt quan tâm tới vấn đề bảo hộ các tài sản trí tuệ đó trên phạm vi lãnh thổ của tất cả các quốc gia được coi là thị trường tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ của mình.
Hơn nữa, một thực tế tại Việt Nam hiện nay là vấn đề bảo hộ quyền SHTT tại nước ngoài chưa được sự quan tâm và đánh giá đúng mức của các doanh nghiệp Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã không đăng ký bảo hộ nhãn hiệu của mình tại các thị trường xuất khẩu trọng điểm và sau khi nhãn hiệu của mình bị chủ thể khác sử dụng họ mới tiến hành các biện pháp để giành lại các nhãn hiệu này. Trong trường hợp đó, chi phí và thời gian cho việc khiếu nại là rất lớn điển hình trường hợp vụ tranh chấp nhãn hiệu Trung Nguyên tại Mỹ, vụ tranh chấp nhãn hiệu VINATABA tại Trung Quốc, Inđonexia,.vv là những ví dụ điển hình.
Với các luận điểm trên cho thấy tầm quan trọng của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu ở nước ngoài trong thời đại kinh tế "thông thoáng" hiện nay. Đó là lý do chính tôi chọn đề tài "Bảo hộ Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo pháp luật Nước ngoài" làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình, với mong muốn nghiên cứu quy định của pháp luật nước ngoài đặc biệt là pháp luật của các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Anh, Trung Quốc, Nhật Bản để từ đó đưa ra những đề xuất góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong các đối tượng SHCN, nhãn hiệu là một trong các đối tượng SHCN hiện nay được đăng ký bảo hộ nhiều nhất ở các nước phát triển cũng như đang phát triển. Nhiều triệu nhãn hiệu đã được đăng ký và đang được bảo hộ hiện nay trên toàn thế giới. Các nhãn hiệu được đăng ký bảo hộ cho tất cả các sản phẩm hàng hóa được sản xuất trên toàn thế giới (bao gồm 34 nhóm hàng hóa khác nhau) và toàn bộ
các loại dịch vụ hiện có (gồm 11 nhóm dịch vụ khác nhau, theo bảng phân loại quốc tế Nice lần thứ 10).
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo luật nước ngoài - 1
- Khái Niệm Nhãn Hiệu Theo Pháp Luật Cộng Đồng Châu Âu (Eu).
- Lịch Sử Hình Thành Và Phát Triển Của Pháp Luật Bảo Hộ Nhãn Hiệu Ở Việt Nam
- Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo luật nước ngoài - 5
Xem toàn bộ 155 trang tài liệu này.
Bảo hộ quyền SHCN đối với Nhãn hiệu đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều cơ quan, các nhà khoa học, các chuyên gia cũng như các cơ sở đào tạo Luật. Bên cạnh đó cũng có nhiều cuộc hội thảo được tổ chức liên quan đến vấn đề này như Hội thảo khu vực ASEAN của WIPO về bảo hộ quốc tế Nhãn hiệu năm 2001 tại Hà Nội, Hội thảo trong khuôn khổ Cơ chế hợp tác vùng JICA-ASEAN (JARCOM) về Thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại Hà Nội tháng 03/2009...Đồng thời đã có nhiều bài viết của nhiều tác giả về sở hữu trí tuệ như bài viết "Thực thi quyền sở hữu trí tuệ theo hiệp định TRIPS/ WTO trong mối tương quan so sánh với pháp luật Việt Nam " -ThS. Vũ Thị Hồng Yến, "Bảo vệ sở hữu trí tuệ trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam"- TS.Trần Lê Hồng", "Bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu hàng hoá ở Việt Nam"- TS. Nguyễn Văn Luật. Những công trình nghiên cứu này chỉ đề cập tới các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ nói chung, chủ yếu vào vấn đề bảo hộ Nhãn hiệu theo các quy định của pháp luật Việt Nam mà chưa đi sâu nghiên cứu bảo hộ Nhãn hiệu theo pháp luật các nước có nền kinh tế phát triển. Cho đến nay ở nước ta chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn điện, có hệ thống về vấn đề bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật nước ngoài. Do vậy, đề tài "Bảo hộ Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu theo pháp luật nước ngoài" mà trọng tâm nghiên cứu những quy định trong pháp luật của Mỹ, Anh, Trung Quốc, Nhật Bản là một đề tài mới, không trùng lặp. Tuy nhiên tác giả luôn mong muốn học hỏi, tham khảo những kết quả mà các công trình khoa học cũng như các kinh nghiệm thực tiễn có liên quan tới đề tài.
3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu các quy định pháp luật nước ngoài về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với Nhãn hiệu. Trong phạm vi nghiên cứu các quy định pháp luật nước ngoài về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với Nhãn hiệu mà trọng tâm nghiên cứu pháp luật của một số nước tiên tiến trên thế giới như Mỹ,
Anh, Trung Quốc và Nhật Bản để từ đó đưa ra những đề xuất, giải pháp nhằm giúp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ Nhãn hiệu.
Bên cạnh ý nghĩa lý luận đề tài nghiên cứu này còn có ý nghĩa thực tiễn. Trong các đối tượng Sở hữu công nghiệp hiện nay thì Nhãn hiệu được đăng ký bảo hộ nhiều nhất và cũng là đối tượng bị vi phạm nhiều nhất. Việc bảo hộ nhãn hiệu mang tính chất lãnh thổ thường giới hạn trong một quốc gia, một nhóm nước hoặc một khu vực chấp nhận sự bảo hộ đó. Nhãn hiệu không chỉ được bảo hộ tại nước xuất xứ, mà chủ nhãn hiệu cần thiết phải mở rộng sự bảo hộ nhãn hiệu tại nước ngoài khi mà mình sẽ xuất khẩu hàng hóa tới bằng các thủ tục xác lập quyền. Khi nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường thì thực tiễn bảo hộ và thực thi quyền bảo hộ nhãn hiệu ở các nước ngày càng đa dạng. Việc nghiên cứu bảo hộ nhãn hiệu theo Pháp luật nước ngoài sẽ nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam phù hợp với pháp luật của các nước tiên tiến trên thế giới, đồng thời góp phần ngăn chặn chủ nhãn hiệu lợi dụng quyền bảo hộ của mình để thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh, xâm hại lợi ích của các nhà kinh doanh khác.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lê nin. Các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử, lôgíc, thống kê, hệ thống hóa....cũng được sử dụng triệt để nhằm làm rõ các vấn đề liên quan đến bảo hộ quyền SHCN đối với nhãn hiệu theo quy định của pháp luật nước ngoài.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ về mặt lý luận, cơ sở pháp lý, cơ chế thực thi của việc bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật Mỹ, Anh, Trung Quốc và Nhật Bản và trên cơ sở đó đưa ra hướng hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam hiện nay về Bảo hộ nhãn hiệu.
Với mục đích trên trong luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật của các nước tiên tiến trên thế giới về bảo hộ Nhãn hiệu để từ đó thấy được những điểm
tương đồng cũng như chưa phù hợp để đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ Nhãn hiệu.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của đề tài
Đây là đề tài khoa học đầu tiên đi chuyên sâu nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống từ chế định pháp luật, cơ chế thực thi và thực trạng bảo hộ nhãn hiệu theo pháp luật nước ngoài cụ thể là pháp luật của những nước tiên tiến. Trong phạm vi nghiên cứu những nội dung cơ bản, kinh nghiệm thực tiễn và những ưu điểm của pháp luật các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu. Qua đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ Nhãn hiệu.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu thành ba Chương với những nội dung cơ bản sau:
Chương 1: Tổng quan lý luận chung về bảo hộ Quyền sở hữu công nghiệp đối với Nhãn hiệu theo Pháp luật Nước ngoài.
Chương 2: Bảo hộ Quyền sở hữu công nghiệp đối với Nhãn hiệu theo pháp luật Mỹ, Anh, Trung Quốc và Nhật Bản.
Chương 3: Những quy định của Pháp luật Việt Nam, phương hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ Nhãn hiệu.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HỘ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NHÃN HIỆU
THEO PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI
1. Khái niệm Nhãn hiệu
Nhãn hiệu đã có từ thời cổ đại, thậm chí từ lúc con người còn tự cung tự cấp những gì họ cần cho bản thân nhiều hơn là mua chúng từ những người thợ thủ công. Thời đó có những thương gia sáng tạo đã biết bán hàng hóa ra bên ngoài vùng sinh sống của họ và thậm chí có khi tới những vùng đất rất xa. Cách đây 3000 năm, những người thợ thủ công Ấn Độ đã từng chạm khắc những chữ ký của mình trên những tác phẩm nghệ thuật trước khi gửi hàng hóa tới Iran. Các nhà sản xuất Trung Quốc đã bán hàng hóa mang nhãn hiệu của mình tại Địa Trung Hải từ 2000 năm trước và cùng thời gian đó hàng nghàn nhãn hiệu đồ gốm La Mã khác nhau đã được sử dụng, kể cả nhãn hiệu FORTIS mà sau này đã trở nên nổi tiếng đến nỗi bị sao chép và làm giả. Nhờ việc kinh doanh phát đạt thời Trung Cổ mà việc sử dụng các dấu hiệu để phân biệt hàng hóa của các thương gia và các nhà sản xuất đã khá phát triển. Tuy vậy, tầm quan trọng về mặt kinh tế của chúng vẫn còn hạn chế.
Các nhãn hiệu bắt đầu đóng một vai trò quan trọng với công cuộc công nghiệp hóa và từ đó đã trở thành một yếu tố quan trọng trong thế giới hiện đại của thương mại quốc tế và nền kinh tế thị trường. Công nghiệp hóa và sự phát triển của hệ thống kinh tế thị trường cho phép các nhà sản xuất và các thương gia cạnh tranh đưa đến người tiêu dùng sự lựa chọn đa dạng cho hàng hóa cùng chủng loại. Thường nếu không có sự khác biệt rõ ràng đối với người tiêu dùng, chúng chỉ thường khác nhau về giá cả và các đặc tính khác. Rõ ràng người tiêu dùng cần được hướng dẫn, giúp họ suy xét các lựa chọn và đi đến quyết định lựa chọn riêng cho mình trong số hàng hóa cạnh tranh. Do đó, hàng hóa phải được đặt tên. Phương tiện để đặt tên hàng hóa trên thị trường chính là nhãn hiệu.
Ngày nay cùng với sự phát triển của nền sản xuất, thương mại mang tính toàn cầu, nhiều chủng loại hàng hóa, dịch vụ cùng với những chiến lược quảng cáo
tiếp thị của các nhà sản xuất kinh doanh, thì việc sử dụng đúng đắn chức năng của nhãn hiệu theo đúng pháp luật sẽ tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, phát triển sản xuất kinh doanh nâng cao chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, trong thực tế của cuộc sống mọi việc không diễn ra một cách lành mạnh như vậy. Do ham lợi, muốn đạt được lợi nhuận nhanh chóng và bằng cách rẻ nhất, người ta đã làm giả, bắt chước hoặc nhái theo các nhãn hiệu được công chúng ưa chuộng, mặc dù các loại hàng này thường có chất lượng thấp hơn hàng thật, thậm chí hoàn toàn không có chức năng sử dụng. Điều này đã xảy ra từ xa xưa, khi bắt đầu xuất hiện việc trao đổi hàng hóa trên trái đất và cùng với sự phát triển của xã hội loài người, tệ nạn đó ngày càng phát triển cả về quy mô và độ tinh vi, nhất là trong thời đại bùng nổ nền kinh tế hàng hóa như ngày nay. Rõ ràng việc làm giả bắt chước nhãn hiệu như trên sẽ triệt tiêu sức sản xuất trong xã hội, làm người sản xuất không muốn đầu tư để phát triển hàng hóa mang nhãn hiệu của mình, còn người tiêu dùng từ chối mua hàng hóa vì mất niềm tin.
Như vậy, thông qua việc giúp người tiêu dùng có quyết định lựa chọn giữa những hàng hóa đa dạng được chào bán trên thị trường, nhãn hiệu còn khuyến khích chủ sở hữu duy trì và nâng cao chất lượng các sản phẩm bán ra dưới nhãn hiệu đó, để đáp ứng sự mong đợi của người tiêu dùng. Do vậy, nhãn hiệu "thưởng công" cho những người sản xuất hàng hóa chất lượng cao một cách ổn định và kết cục là nhãn hiệu kích thích sự phát triển kinh tế.
Khái niệm Nhãn hiệu đã được các chuyên gia, các nhà lập pháp, các nhà quản lý hay các nhà sản xuất kinh doanh.... đã đưa ra rất nhiều quan điểm khác nhau về Nhãn hiệu. Để làm rõ khái niệm Nhãn hiệu, trong phạm vi nghiên cứu của mình tác giả xin được giới thiệu các khía cạnh nghiên cứu sau.
1.1 Khái niệm Nhãn hiệu theo quan niệm của Tổ chức Sở hữu Trí tuệ thế giới.
Tổ chức Sở hữu Trí tuệ thế giới (WIPO) là một trong số các tổ chức chuyên môn của hệ thống các tổ chức của Liên Hợp quốc (UN). Công ước thành lập WIPO được ký kết tại Stockholm năm 1967 và có hiệu lực năm 1970. WIPO có trụ sở tại Genever Thụy Sỹ với sứ mệnh là thúc đẩy hợp tác quốc tế trong việc sáng tạo, phổ
biến, sử dụng và bảo vệ những sản phẩm trí tuệ của con người nhằm góp phần cân đối giữa khuyến khích sáng tạo trên toàn thế giới, một mặt bằng cách bảo hộ thích đáng các lợi ích vật chất và tinh thần của người sáng tạo, mặt khác là đem lại cơ hội dự thưởng những lợi ích văn hóa và kinh tế xã hội của các sáng tạo đó trên toàn thế giới; khuyến khích việc ký kết các điều ước quốc tế về Sở hữu trí tuệ; giúp cho việc hiện đại hóa pháp luật quốc gia giữa các nước thành viên, quản lý các điều ước quốc tế về Sở hữu trí tuệ.
Theo định nghĩa của WIPO nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của doanh nghiệp công nghiệp hoặc thương mại hoặc của một nhóm các doanh nghiệp đó. Dấu hiệu này có thể là một hoặc nhiều từ ngữ, chữ, số, hình, hình ảnh, biểu tượng, màu sắc hoặc sự kết hợp các màu sắc, hình thức hoặc sự trình bày đặc biệt trên bao bì, bao gói sản phẩm. Dấu hiệu này có thể là sự kết hợp của nhiều yếu tố nói trên. Nhãn hiệu chỉ được chấp nhận bảo hộ nếu nó chưa được cá nhân hoặc doanh nghiệp nào khác ngoài chủ sở hữu nhãn hiệu đó sử dụng hoặc nhãn hiệu hiệu đó không được trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu khác được đăng ký trước đó cho cùng loại sản phẩm.
Định nghĩa Nhãn hiệu của WIPO đã xác định các yếu tố và bản chất của nhãn hiệu. Định nghĩa này chính là sự kế thừa những quy định tại Khoản 1 Điều 15 của Hiêp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp định TRIPS): "Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hoá hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình hoạ và tổ hợp các mầu sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó, phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu. Trường hợp bản thân các dấu hiệu không có khả năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ tương ứng, các Thành viên có thể quy định rằng khả năng được đăng ký phụ thuộc vào tính phân biệt đạt được thông qua việc sử dụng. Các Thành viên có thể quy định rằng điều kiện để được đăng ký là các dấu hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được".