Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý theo pháp luật Việt Nam - Ninh Thị Thanh Thủy - 2



Danh mục các bảng



Số hiệu bảng


Tên bảng


Trang

3.1

Thống kê số đơn chỉ dẫn địa lý đã nộp từ năm 2000 - 2008

93

3.2

Một số chỉ dẫn địa lý được bảo hộ dưới danh nghĩa nhãn hiệu tập thể

95

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý theo pháp luật Việt Nam - Ninh Thị Thanh Thủy - 2


Mở đầu


1. Tính cấp thiết của đề tài

Thế giới hiện nay đang phát triển trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu và hội nhập, nền kinh tế thế giới đang chuyển sang thời kỳ mới với trình độ phát triển dựa trên nền tảng của tri thức. Yếu tố trí tuệ ngày càng được phát triển mạnh mẽ và trở thành một trong các nhân tố quyết định khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ. Điều này cũng có nghĩa là sự phát triển của nền kinh tế thế giới hiện nay phụ thuộc nhiều vào hiệu quả bảo hộ các sản phẩm trí tuệ và đang có sự quan tâm đặc biệt của các quốc gia trong các quan hệ kinh tế quốc tế.

Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta với những cơ hội và thách thức trong quá trình mở cửa, hội nhập đã và đang đòi hỏi chúng ta phải có các cơ chế, chính sách thúc đẩy hoạt động sáng tạo, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và sản xuất, kinh doanh. Cơ chế bảo hộ sở hữu trí tuệ với nội dung cơ bản coi kết quả của hoạt động sáng tạo là tài sản trí tuệ và các quyền về tài sản này phải được pháp luật thừa nhận và bảo vệ là đòi hỏi khách quan cho sự ra đời công cụ pháp lý của nhà nước, góp phần tạo động lực cho hoạt động sáng tạo, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.

Bảo hộ sở hữu trí tuệ vừa xuất phát từ nhu cầu tự thân của nền kinh tế - xã hội nước ta trong quá trình phát triển, vừa là một đòi hỏi trong quá trình hội nhập. Việc xây dựng và duy trì hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ hữu hiệu là một trong những yếu tố quan trọng và cần thiết của Việt Nam trong thời kỳ hiện nay.

Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, Nhà nước ta đã ban hành khá nhiều văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực sở hữu trí tuệ như: Pháp lệnh


Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (1989), Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả (1994), Bộ luật Dân sự (1995), Bộ luật Hình sự (1999) và nhiều văn bản khác để xử lý những vấn đề cơ bản trong giao dịch dân sự về sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, quy định trong các văn bản pháp luật này chủ yếu là những quy định mang tính nguyên tắc chung; các quy định cụ thể nằm rải rác ở nhiều văn bản dưới luật nên thiếu tính đồng bộ và hiệu lực pháp lý, ảnh hưởng tới việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở trong nước và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, một số vấn đề mới xuất hiện do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và yêu cầu của đời sống xã hội như bảo hộ thiết kế bố trí mạch tích hợp, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh, quyền đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mạichưa có chế định pháp lý điều chỉnh trong các văn bản quy phạm pháp luật này.

Trong khi đó, là một nước nông nghiệp, Việt Nam có rất nhiều nông sản có chất lượng và tính chất đặc thù như gạo Hải Hậu, nhãn lồng Hưng Yên, vải thiều Thanh Hà, xoài cát Hòa Lộc, v.v... Ngoài nông sản, rất nhiều địa phương của Việt Nam còn có các đặc sản nổi tiếng khác như nước mắm Phú Quốc, bánh đậu xanh Hải Dương, bánh cuốn Thanh Trì, lụa Hà Đông, v.v... Những thương hiệu này có một giá trị thương mại rất lớn, là công cụ marketing hữu hiệu trong nền kinh tế toàn cầu. Bảo hộ pháp lý hiệu quả các thương hiệu này không chỉ góp phần nâng cao giá trị thương mại của hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới mà còn góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa và tri thức truyền thống của dân tộc kết tinh trong những hàng hóa này. Tuy nhiên, cho đến nay mới chỉ có 16 chỉ dẫn địa lý/tên gọi xuất xứ được bảo hộ tại Việt Nam. Nước mắm Phú Quốc nổi tiếng đến mức không chỉ bị làm giả ở Việt Nam mà cả ở nước ngoài. Nhiều đặc sản nổi tiếng của Việt Nam đang bị mai một và biến mất dần khỏi trí nhớ của người tiêu dùng. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng này là chúng ta chưa nhận thức được ý nghĩa kinh tế, văn hóa của chỉ dẫn địa lý và chưa có một hệ thống bảo hộ thích hợp loại thương hiệu đặc biệt này.


Việc ban hành Bộ luật Dân sự năm 2005; Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 nhằm thể chế hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ đã góp phần hoàn thiện, bổ sung và thống nhất quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật đã có đồng thời giải quyết được những đòi hỏi thực tế hiện nay trong đó có vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý. Tuy nhiên, để các quy định của pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý nói riêng đi vào cuộc sống một cách hiệu quả đòi hỏi phải có sự hướng dẫn, giải thích, áp dụng các quy định này một cách đúng đắn, đầy đủ và phải phù hợp với xu hướng của thế giới. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về lĩnh vực này là rất cần thiết.

Với lý do đó, tôi quyết định chọn đề tài "Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý theo pháp luật Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.

2. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

2.1. Mục đích nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu một cách tổng thể các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý, nghiên cứu những vấn đề chung và cơ bản nhất về bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam, nghiên cứu các hình thức bảo hộ chỉ dẫn địa lý trên thế giới: (i) theo hệ thống đăng ký riêng; (ii) thông qua đăng ký nhãn hiệu tập thể hoặc nhãn hiệu chứng nhận theo luật nhãn hiệu hàng hóa; và (iii) theo luật chống cạnh tranh không lành mạnh. Ngoài ra, đề tài cũng nghiên cứu thực trạng hoạt động bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam. Qua đó, đề tài đưa ra các yêu cầu và kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý cũng như tăng cường hiệu quả bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam.


2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Với mục đích và phạm vi nghiên cứu như đã đề cập ở trên, đề tài này đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:

- Khái niệm về chỉ dẫn địa lý, so sánh chỉ dẫn địa lý với một số đối tượng sở hữu công nghiệp khác;

- Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp, đặc điểm của quyền sở hữu công nghiệp và khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý;

- Các quy định của hệ thống pháp luật quốc tế về chỉ dẫn địa lý;

- Các hình thức bảo hộ sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý:

(i) theo hệ thống pháp luật riêng; (ii) theo pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa; và

(iii) theo pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh;

- Các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về điều kiện bảo hộ chỉ dẫn địa lý, việc xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý, nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý; bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý;

- Thực trạng của hoạt động bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam qua đó đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam.

3. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong luận văn này là phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành trong vấn đề bảo hộ chỉ dẫn địa lý để đưa ra một cái nhìn tổng thể của vấn đề. Với việc sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp này, luận văn chỉ ra một số điểm hạn chế, bất cập của pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý từ đó đưa ra một số giải pháp khắc phục để hoàn thiện các quy định pháp luật này.


Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp luật học so sánh, lịch sử, thống kê để làm rõ quá trình phát triển của vấn đề được nghiên cứu, để đánh giá sự tương thích của pháp luật Việt Nam so với pháp luật quốc tế.

Các phương pháp nói trên đều dựa trên nền tảng là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin.

4. Tình hình nghiên cứu

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đang trở thành mối quan tâm hàng đầu trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Đối với nước ta việc xây dựng và duy trì một hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ hữu hiệu là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mà trước mắt là một điều kiện bắt buộc phải đạt được khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Việc bảo hộ sở hữu trí tuệ nói chung và sở hữu công nghiệp nói riêng trong thời gian gần đây mới bắt đầu được quan tâm nhưng chưa đúng mức. Đặc biệt đối với chỉ dẫn địa lý - một trong các đối tượng bảo hộ sở hữu công nghiệp có rất ít bài viết, công trình nghiên cứu về vấn đề này ở Việt Nam, như bài "Chỉ dẫn địa lý nông sản: thực trạng và giải pháp", của Xuân Anh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (tháng 7), 2004; "Các quy định của Hiệp định TRIPs về bảo hộ chỉ dẫn địa lý", của ThS. Vũ Hải Yến, Tạp chí Luật học, số 11, 2006; "Bảo hộ chỉ dẫn địa lý chỉ pháp luật thôi, chưa đủ", của Lê Tùng, Tạp chí Hiến kế lập pháp, số 9(70), 2006; "Chỉ dẫn địa lý - các khía cạnh thương mại trong xuất khẩu", đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ do PGS.TS. Đỗ Thị Loan làm chủ nhiệm đề tài...

5. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương

Chương 1: Khái quát chung về quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý.


Chương 2: Một số nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý.

Chương 3: Thực trạng hoạt động bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ chỉ dẫn địa lý.



Chương 1‌‌

Khái quát chung về chỉ dẫn địa lý

và quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa lý


1.1. Khái niệm chỉ dẫn địa lý và quyền sở hữu công nghiệp đối với chỉ dẫn địa


1.1.1. Khái niệm chỉ dẫn địa lý và so sánh chỉ dẫn địa lý với một số

đối tượng sở hữu công nghiệp khác

1.1.1.1. Khái niệm chỉ dẫn địa lý với tư cách là đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp

Ngoại trừ luật kiểu dáng công nghiệp, chắc hẳn không có một phạm trù nào trong Luật Sở hữu trí tuệ lại tồn tại nhiều khái niệm khác nhau về bảo hộ như trong lĩnh vực chỉ dẫn địa lý. Thuật ngữ "chỉ dẫn địa lý" có thể là cách thể hiện hay nhất, nó tương đối mới mẻ và chỉ xuất hiện gần đây trong các cuộc đàm phán quốc tế [14, tr. 119].

Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp không đưa ra khái niệm chỉ dẫn địa lý mà chỉ nhắc đến chỉ dẫn nguồn gốc và tên gọi xuất xứ hàng hóa là các đối tượng sở hữu công nghiệp tại khoản 2 Điều 1. Đây là thuật ngữ được áp dụng đã lâu và vẫn được sử dụng chính thức trong nhiều công ước, hiệp định do WTO quản lý.

Thuật ngữ "chỉ dẫn địa lý" đã được đề cập trong Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ ("TRIPS") tại khoản 1 Điều 22 như sau: "Chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về hàng hóa có nguồn gốc từ lãnh thổ của một nước thành viên hoặc từ một khu vực hay địa phương trong lãnh thổ đó mà chất lượng, uy tín hay đặc tính khác của hàng hóa chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định" [19].

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 22/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí