Việc Ký Kết Tham Gia Các Điều Ước Quốc Tế Về Quyền Liên Quan

Trên thế giới, từ những nước có truyền thống về bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ đến các nước đang phát triển như: Anh, Đức, Mỹ, Ấn Độ, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore…đã xây dựng luật đơn hành đối với từng đối tượng Sở hữu trí tuệ như Luật bản quyền, Luật Sáng chế, Luật Nhãn hiệu….trong khi đó một số nước khác đi theo hướng xây dựng Đạo luật SHTT chung như Pháp, Philippin, SriLanka, El Sanvador…

Tiếp thu các kinh nghiệm quốc tế, trên cơ sở Nghị quyết số 35/2004/QH11 ngày 25/12/2004 của Quốc hội về chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của quốc hội năm 2005, cùng với nhu cầu cấp bách phải có một hành lang pháp lý về bảo hộ sở hữu trí tuệ đáp ứng được các qui tắc chung của thế giới, đủ điều kiện gia nhập WTO của Việt Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ đã được Chính phủ giao chủ trì xây dựng Luật sở hữu trí tuệ. Trong một thời gian rất ngắn, từ ngày 27/12/2004 thành lập Ban soạn thảo liên nghành đến ngày 7/2/2005 thì bản Dự thảo Luật SHTT (lần 2) đã được hoàn chỉnh để gửi xin ý kiến. Dự thảo này gồm 14 chương với 479 điều điều chỉnh toàn diện quyền tác giả, quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng mới.

Thực tế tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về việc cần thiết xây dựng một Luật chuyên ngành về SHTT hay là xây dựng một phần về quyền SHTT trong BLDS như BLDS năm 1995. Tuy nhiên, phương án xây dựng một Luật chuyên ngành về SHTT được các chuyên gia trong và ngoài nước và các Doanh nghiệp ủng hộ. Do vậy mà tại kỳ họp Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10, ngày 29/11/2005 Luật SHTT (luật số 50/2005/QH10) đã được Quốc hội thông qua với số phiếu gần như tuyệt đối (368/370) và có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2006. Như vậy, Luật SHTT dần khẳng định là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Luật SHTT đã tiếp thu được các giá trị hình thành trong quá trình thi hành các qui phạm pháp luật trong hệ thống

pháp luật Việt Nam về SHTT và đã được thẩm định trong thực tiễn. Các qui định của luật SHTT về cơ bản đã tương thích với hầu hết các điều ước quốc tế có liên quan, các Hiệp định song phương đảm bảo thuận lợi cho việc hội nhập quốc tế của Việt Nam. Tính minh bạch, rõ ràng và khả thi cũng thể hiện rõ tại các điều luật. Như vậy, đây là lần đầu tiên Việt Nam có một đạo luật riêng về SHTT được ban hành bởi Quốc hội- cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước ta.

Ngay sau khi Luật SHTT 2005 ra đời và đi vào thực tiễn điều chỉnh các quan hệ có liên quan trong xã hội, Chính phủ, các Bộ và Cơ quan có liên quan đã ban hành các văn bản hướng về việc thực hiện các qui định của Luật SHTT 2005. Trong lĩnh vực quyền liên quan, có các văn bản hướng dẫn thi hành luật SHTT 2005 như:

- Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 09 năm 2006 của Chính phủ Qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan.

- Nghị định số 105/2006/ĐN-CP ngày 22/09/2006 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ.

- Thông tư liên tịch số 02/2008/TTLT-TANDTC-VKSNDTC- BVHTT&DL-BKH&CN-BTP ngày 03/04/2008 hướng dẫn áp dụng một số qui định của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân.

Trải quan hơn 3 năm kể từ ngày có hiệu lực, có một số các qui định trong Luật SHTT 2005 đã không còn phù hợp với thực tế. chính các qui định đó gây cản trở cho hoạt động của các chủ thể liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có quyền liên quan. Vì vậy, việc sửa đổi bổ sung một số điều của luật SHTT 2005 là cần thiết. Do đó, ngày 19/06/2009 Luật sửa đổi, bổ sung

một số điều của Luật SHTT 2005 đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/2010.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

1.4.2 Việc ký kết tham gia các điều ước quốc tế về quyền liên quan

Hiện nay, trên bình diện quốc tế quyền liên quan được bảo hộ tại các Công ước như Rome, Geneva, Brussel và các Hiệp định TRIPS, WPPT. Việt Nam hiện cũng đã gia nhập hầu hết các điều ước quốc tế.

Bảo hộ quyền liên quan theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam - 5

Theo thông tin từ trang web www.ompi.int của tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), Tổng giám đốc WIPO đã có Thông báo số 83 về việc Việt Nam gia nhập Công ước Geneva về “Bảo hộ Nhà sản xuất bản ghi âm chống lại việc sao chép trái phép bản ghi âm của họ”-“Convention for the Protection of Producer of Phonograms Against Unauthorized Duplication of their Phonograms of October 29, 1971”. Công ước có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 6/7/2005. Việc tham gia vào Công ước đã đáp ứng các nhu cầu phát triển của nền công nghiệp ghi âm Việt Nam. Công ước Geneva là công cụ pháp lý hữu hiệu trong việc chống lại sự sao chép trái phép mang tính quốc tế các bản ghi âm tại Việt Nam. Nhưng trước mắt Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện Công ước khi mà tình trạng băng đĩa lậu, ghi âm trái phép vẫn còn vi phạm tràn lan.

Một trong các Công ước quan trọng về bảo hộ đối với quyền của Người biểu diễn, Nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng mà Việt Nam đã gia nhập là Công ước Rome. Công ước Rome ra đời năm 1961 tại Rome Italia, Việt Nam chính thức gia nhập và trở thành viên của công ước vào ngày 01/03/2007 và là thành viên thứ 86 của công ước này. Có thể coi đây là một Công ước “đóng” vì thành viên của nó không chỉ là thành viên của Liên hợp quốc mà còn phải tham gia vào Công ước Bern hoặc Công ước toàn cầu về bản quyền (UCC). Công ước Rome được đề cập như “Công ước tiên phong”. Không giống như các qui định quốc tế khác được ra đời sau pháp luật các

quốc gia và có xu hướng tổng hợp lại các qui định đó lại. Công ước Rome là một thử nghiệm mới trong một lĩnh vực mà các quốc gia chưa hề quan tâm. Sau khi ra đời nó đã tác động ngược trở lại các quốc gia trong vấn đề thể chế hóa sự bảo hộ quyền của người biểu diễn, Nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng. Các qui định của Công ước Rome đến nay vẫn thể hiện có giá trị như là tiêu chuẩn quốc tế trong việc bảo hộ quyền liên quan. Đây là Công ước về bảo hộ quyền cho tất cả các chủ thể quyền liên quan như Người biểu diễn, Nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng. Việc Việt Nam tham gia công ước Rome đã đáp ứng được nhu cầu cấp bách của cá nhân và tổ chức trong xã hội đối với các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, hoạt động sản xuất bản ghi âm (băng đĩa), hoạt động phát sóng của các tổ chức phát sóng tại Việt Nam. Việc gia nhập Công ước có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bảo hộ quyền đối với các đối tượng của quyền liên quan trong nước cũng như cá nhân, pháp nhân của các quốc gia thành viên khác. Thúc đẩy hoạt động của các chủ thể quyền liên quan, đồng thời giúp các cơ quan quản lý quản lý tốt hơn các hoạt động của các chủ thể này. Chống lại các hành vi vi phạm về bản quyền hiện đang rất phổ biến và bức xúc tại Việt Nam.

Trong xu thế hội nhập chung, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ khoảng cách địa lý đã không còn là rào cản đối với các quốc gia trong việc mở rộng quan hệ giao lưu về kinh tế, chính trị và văn hóa. Sự phát triển của khoa học công nghệ làm cho thế giới không có khoảng cách, các quốc gia có thể coi là không có biên giới. Cũng từ ý nghĩa quan trọng đó, mà dẫn đến phải có các qui tắc điều chỉnh cho các hoạt động liên quan đến việc phân phối tín hiệu mang chương trình truyền hình qua vệ tinh. Công ước quốc tế liên quan đến việc phân phối tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh được ra đời tại Brussels ngày 21/05/1974. Việt Nam trở thành thành viên chính thức của công ước này vào ngày 12/01/2006. Đây là Công ước mang

tính “mở” vì cho phép hầu hết các quốc gia tham gia vào mà không có điều kiện ràng buộc phải tham gia Công ước Bern hay Công ước toàn cầu về bản quyền (UCC) như Công ước Rome. So với Công ước Rome, Công ước Brussels có hai điểm khác biệt cơ bản. Một là, cho phép các thành viên tự do lựa chọn nội dung pháp lý để thực thi các nghĩa vụ của mình bên cạnh các đặc quyền cho phép hoặc cấm theo qui định tại Công ước. Hai là, không bắt buộc các thành viên phải áp dụng nguyên tắc đãi ngộ quốc gia, tức là các quốc gia không có nghĩa vụ trao cho các chủ thể nước ngoài tất cả các quyền như đối với công dân của mình.

Ngoài các Điều ước quốc tế, việc ký kết các Hiệp định song phương về bảo hộ SHTT cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Một trong các Hiệp định lớn va quan trọng đối với Việt Nam là Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Kim ngạch thương mại hai chiều đang ngày một tăng nhanh kể từ sau khi hai nước ký kết Hiệp định thương mại ngày 13/07/2000. Ngoài các qui định quan trọng về thương mại, Hiệp định còn dành một phần rất quan trọng qui định về quyền sở hữu trí tuệ (Chương II của Hiệp định) trong đó có quyền liên quan. Cụ thể tại Điều 4 qui định về quyền tác giả, quyền liên quan, với khoản 6, khoản 7 qui định cụ thể đối với việc bảo hộ quyền của chủ sở hữu quyền liên quan như:

Bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình của công dân hai nước: Đó là mỗi bên (Bên Việt Nam hoặc bên Hoa Kỳ) sẽ dành cho nhà sản xuất bản ghi âm quyền cho phép hoặc cấm người khác sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp toàn bộ hay một phần bản ghi; Nhập khẩu vào lãnh thổ của bên kia bản sao của bản ghi âm; phân phối công khai lần đầu bản gốc hoặc bản sao của bản ghi âm dưới hình thức bán, cho thuê hoặc các hình thức khác; và cho thuê, mượn bản gốc hoặc bản sao của bản ghi âm nhằm đạt được lợi ích thương mại.

Bảo hộ người biểu diễn của công dân hai nước: Mỗi bên dành cho những người biểu diễn có quyền cho phép hoặc ngăn cấm định hình các buổi biểu diễn nhạc sống của họ trong bản ghi âm; Sao chép bản định hình trái phép của các buổi biểu diễn nhạc sống của họ; phát hoặc truyền đạt theo cách khác tới công chúng âm thanh của buổi biểu diễn nhạc sống; phân phối, bán, cho thuê, định đoạt hoặc chuyển giao các bản định hình trái phép các buổi biểu diễn trực tiếp của họ, bất kể việc định hình đó được thực hiện ở đâu.

Bảo hộ đối với tổ chức phát sóng, chủ thể còn lại của quyền liên quan được qui định tại Điều 5 của Hiệp định: Đối với các vi phạm nghiêm trọng liên quan đến việc bảo hộ tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hoá, mỗi Bên quy định các biện pháp xử lý thích hợp, bao gồm các biện pháp, chế tài dân sự và hình sự. Các hành vi phạm nghiêm trọng liên quan đến việc bảo hộ tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hoá bao gồm các hành vi sau: (i) Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, hoặc phân phối (bao gồm nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê) một thiết bị hoặc hệ thống, do bất kỳ người nào thực hiện khi biết hoặc có cơ sở để biết rằng thiết bị hoặc hệ thống đó chủ yếu để giúp cho việc giải mã trái phép một tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hoá; (ii) Cố ý thu hoặc tiếp tục phân phối một tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hoá khi tín hiệu đã được giải mã mà không được phép của người phân phối hợp pháp tín hiệu đó (bất kể người đó ở đâu) hoặc của bất kỳ người hoặc những người nào được người đầu tiên phát tín hiệu chỉ định là người được phép phân phối tín hiệu tại Bên đó.

Như vậy, dù được coi là một lĩnh vực mới trong nhận thức cũng như áp dụng pháp luật trong thực tiễn tại Việt Nam nhưng các qui định của pháp luật Việt Nam về Sở hữu trí tuệ nói chung và quyền liên quan nói riêng đã cơ bản phù hợp và đầy đủ so với các yêu cầu của nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam về vấn đề này. Đây là khó khăn thách thức trong việc xây dựng hệ thống pháp

luật về Sở hữu trí tuệ và thực thi. Tuy nhiên, ở đây cũng có nhiều điểm thuận lợi khi chúng ta tiếp thu và áp dụng có chọn lọc sao cho phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam các qui định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền liên quan nói riêng. Làm sao đảm bảo tốt nhất quyền của các chủ thể có liên quan mà vẫn phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, qua đó góp phần thúc đẩy hơn nữa hoạt động sáng tạo của các chủ thể để đem đến cho xã hội nhiều sản phẩm trí tuệ có ích qua đó góp phần thúc đẩy cho sự phát triển kinh tế xã hội nói chung của đất nước.

Chương 2- PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN BẢO HỘ QUYỀN LIÊN QUAN TẠI VIỆT NAM‌‌

2.1 Đối tượng và điều kiện bảo hộ quyền liên quan

2.1.1 Đối tượng của quyền liên quan

Đối tượng của quyền liên quan được bảo hộ theo qui định tại Điều 17 Luật SHTT bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa.

Đối tượng của quyền liên quan là cuộc biểu diễn nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Cuộc biểu diễn do công dân Việt Nam thực hiện tại Việt Nam hoặc nước ngoài [25, điểm a khoản 1 Điều 17]. Cuộc biểu diễn được bảo hộ khi cuộc biểu diễn được thực hiện bởi công dân của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cho dù địa điểm thực hiện cuộc biểu diễn ở bất cứ nơi đâu trong hay ngoài lãnh thổ Việt Nam. Yếu tố quốc tịch được qui định cũng là phù hợp với thông lệ quốc tế, các điều ước quốc tế, các nguyên tắc trong hoạt động bảo hộ các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ hiện nay. Điều này cho thấy pháp luật quốc gia luôn coi trọng và bảo hộ đối với quyền sở hữu trí tuệ của công dân nước mình.

b) Cuộc biểu diễn do người nước ngoài thực hiện tại Việt Nam [25, điểm b khoản 1 Điều 17]. Không phân biệt quốc tịch của tác giả, cuộc biểu diễn được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam thì sẽ đương nhiên được bảo theo các qui định của pháp luật Việt nam. Việc qui định như vậy, một mặt đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của người thực hiện cuộc biểu diễn, khuyến khích họ sẽ thực hiện nhiều hơn nữa các cuộc biểu diễn trên lãnh thổ Việt Nam. Mặt khác, đảm bảo các lợi ích của Việt Nam, công dân Việt Nam có thể tiếp cận được với cuộc biểu diễn, biết được thêm về nhiều nền văn hóa, nghệ thuật, khoa học khác trên thế giới.

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 22/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí